Mục lục bài viết
- 1. Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh là gì?
- 2. Di tích lịch sử - văn hóa phải có một trong các tiêu chí nào?
- 3. Danh lam thắng cảnh phải có một trong các tiêu chí nào?
- 4. Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh được phân thành 04 loại như sau:
- 5. Đặc trưng của hoạt động bảo tồn di tích ?
- 6. Xã hội hóa hoạt động bảo tồn di tích như thế nào ?
Di tích Lịch sử - Văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm, hiện vật, di vật, đồ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có liên quan đến những sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hoá, xã hội một dân tộc, một đất nước.
Di tích lịch sử - văn hoá phải có một trong các tiêu chí sau:
- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong quá trình dựng nước và giữ nước;
- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân của đất nước;
- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời kì cách mạng, kháng chiến;
- Địa điểm có giá trị tiêu biểu về khảo cổ;
- Quần thể các công trình kiến trúc hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử.
Căn cứ vào giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học di tích lịch sử - văn hoá được chia thành: dị tích cấp tỉnh là di tích có giá trị tiêu biểu của địa phương; di tích quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia; di tích quốc gia đặc biệt là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia.
1. Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh là gì?
1. Theo quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 4 Luật di sản văn hóa (sửa đổi, bổ sung năm 2009), di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh thuộc loại hình di sản văn hóa vật thể.
Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học.
Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học.
2. Di tích lịch sử - văn hóa phải có một trong các tiêu chí nào?
Di tích lịch sử - văn hóa phải có một trong các tiêu chí nsau đây:
- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử, văn hóa tiêu biểu của quốc gia hoặc của địa phương;
- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân, nhân vật lịch sử có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của quốc gia hoặc của địa phương trong các thời kỳ lịch sử;
- Địa điểm khảo cổ có giá trị tiêu biểu;
- Công trình kiến trúc, nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc đô thị và địa điểm cư trú có giá trị tiêu biểu cho một hoặc nhiều giai đoạn phát triển kiến trúc, nghệ thuật.
3. Danh lam thắng cảnh phải có một trong các tiêu chí nào?
Danh lam thắng cảnh phải có một trong các tiêu chí sau đây:
- Cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu;
- Khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù hoặc khu vực thiên nhiên chứa đựng những dấu tích vật chất về các giai đoạn phát triển của trái đất."
4. Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh được phân thành 04 loại như sau:
- Di tích lịch sử (di tích lưu niệm sự kiện, di tích lưu niệm danh nhân);
- Di tích kiến trúc nghệ thuật;
- Di tích khảo cổ;
- Danh lam thắng cảnh.
5. Đặc trưng của hoạt động bảo tồn di tích ?
Bảo tồn di tích lịch sử, văn hóa - nhân tố quan trọng của phát triển bền vững
Nhìn từ góc độ có hay không được duy trì những công năng vốn có từ ban đầu hoặc trong quá trình tồn tại, người ta chia các di tích làm hai loại: di tích "sống" và di tích "chết". Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam rất đa dạng, phong phú về loại hình nhưng di tích "chết" không nhiều mà hầu hết là di tích "sống". Những kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng như đình, đền, chùa, miếu... những công trình phục vụ dân sinh như nhà ở, cầu, quán... có hàng trăm năm tuổi được coi là di tích nhưng với người dân chúng là nơi cư trú, sinh hoạt cộng đồng, nơi gửi gắm đời sống tinh thần, tâm linh.
Theo cách nhìn nhận về hình thái tồn tại, di sản văn hóa được chia thành hai loại: di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể (di tích). Tuy có sự phân biệt nhưng hai loại hình này luôn có mối quan hệ hữu cơ và biện chứng, chúng song song tồn tại và có tác động qua lại lẫn nhau. Mỗi một di tích do tiền nhân sáng tạo đều liên quan một nhu cầu hoạt động tinh thần nào đó. Di tích lịch sử văn hóa là sản phẩm vật chất nhưng luôn mang trong mình những yếu tố phi vật chất là thông điệp, sức sáng tạo, ý thức xã hội, đời sống tinh thần, tâm linh của thế hệ trước lưu truyền cho thế hệ sau.
Do vậy, bảo tồn và phát huy giá trị di tích không những gìn giữ được những sản phẩm vật thể mà còn góp phần làm thăng hoa di sản văn hóa phi vật thể, từ đó cốt cách dân tộc được giữ gìn, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc được nuôi dưỡng, lưu truyền - những nhân tố quan trọng không thể thiếu của sự phát triển bền vững. Bảo tồn và phát triển là hai nhân tố quan trọng, có ý nghĩa chiến lược của mỗi quốc gia. Trong lĩnh vực di sản văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị của di tích (một cách đúng mức) sẽ đem lại những hiệu quả thiết thực cho phát triển kinh tế, xã hội.
Nâng cao hiệu quả bảo tồn di tích
Ở Việt Nam, đến nay đã có 2.795 di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh được xếp hạng. Bên cạnh đó là hàng vạn di tích khác trải khắp vùng, miền đất nước và gắn bó chặt chẽ với cuộc sống cộng đồng. Những năm gần đây, bảo tồn di tích nhận được sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước và của toàn xã hội và thật sự tham gia tích cực vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đáng được ghi nhận, vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập cần khắc phục. Luật Di sản văn hóa (năm 2001), Nghị định 92 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa (năm 2002), Quy chế bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh (năm 2003) được ban hành là những cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác bảo tồn di tích. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động bảo tồn di tích vẫn là đối tượng điều chỉnh của Nghị định quản lý đầu tư và xây dựng nên thực tế còn nhiều bất cập. Bảo tồn di tích là một lĩnh vực khoa học chuyên ngành với những đặc điểm riêng khác với xây dựng cơ bản thông thường. Chính vì vậy, cần có một cơ chế phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi và nâng cao hiệu quả cho công tác này.
Có một yếu tố quan trọng liên quan chất lượng bảo tồn trùng tu di tích, đó là lực lượng thực thi, những người quyết định phương án, giải pháp và đội ngũ thợ trực tiếp thực hiện việc trùng tu. Những năm qua, nhiều di tích được trùng tu bởi lực lượng không chuyên nghiệp đã làm biến dạng và mất mát nhiều về giá trị lịch sử, văn hóa đích thực. Tháp Bình Thạnh ở Tây Ninh sau khi trùng tu đã được "trẻ hóa" hơn 10 thế kỷ và chuyển hóa từ ngôi đền Khmer thành một di tích phật giáo (!). Hay việc trùng tu tùy tiện di tích ở Lam Kinh, Thanh Hóa đã tạo ra một cơn "địa chấn" xôn xao công luận một thời. Nhanh chóng xây dựng một chương trình và kế hoạch đào tạo lực lượng chuyên nghiệp cho sự nghiệp bảo tồn di tích và chuyên nghiệp hóa lực lượng làm công tác bảo tồn, trùng tu di tích đang là một vấn đề cấp bách.
6. Xã hội hóa hoạt động bảo tồn di tích như thế nào ?
Di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh của nước ta có ở các vùng, miền trên đất nước và nhu cầu bảo tồn là rất lớn mà khả năng đầu tư của Nhà nước thì có hạn. Trong bối cảnh đó, xã hội hóa công tác bảo tồn và phát huy giá trị của di tích là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, công tác bảo tồn di tích không có nghĩa là ai cũng có thể can thiệp vào di tích. Ðiều chính yếu là cần nâng cao nhận thức của cộng đồng về ý thức bảo tồn di tích cũng như hiểu biết về ý nghĩa giá trị của hoạt động bảo tồn di tích. Khi nhận thức của cộng đồng được nâng cao, trước hết các hoạt động của cộng đồng sẽ không làm tổn hại đến di tích. Sau đó tùy theo khả năng mọi người có thể tham gia đóng góp vào bảo tồn và phát huy giá trị của di tích bằng những hình thức phù hợp.
Có thể lấy thị xã Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam làm thí dụ tốt trong vấn đề xã hội hóa ở lĩnh vực này. Ở đây, mọi người dân Hội An đã trở nên gắn bó hữu cơ với mảnh đất di tích mỗi mái nhà, khoảnh sân, mỗi con đường, góc phố đều là những thành phần của khu di sản thế giới này. Người Hội An hồ hởi và tự nguyện tham gia các hoạt động bảo tồn, thực hiện các quy định cần thiết của chính quyền nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Trong khi đó, có những làng, xã mà mỗi gia đình đều có xu hướng giàu lên, nhưng ngôi đình làng lại xập xệ xuống cấp không được bảo tồn, chăm sóc (?).
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực văn hóa, du lịch nhằm ổn định và duy trì môi trường văn hóa - xã hội lành mạnh. Thường xuyên chú trọng xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập để trở thành lực lượng then chốt trong việc nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
Xã hội hóa việc bảo tồn, phát huy các giá trị di tích lịch sử cách mạng. Đồng thời, bảo tồn, phát huy các giá trị di tích lịch sử cách mạng cần phải gắn liền với nghiên cứu, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp; nâng cao trình độ đội ngũ quản lý, chuyên môn ở các cấp. Các cơ quan chức năng văn hóa phải giữ vai trò quản lý, hướng dẫn theo đúng định hướng, chủ trương của Đảng, Nhà nước. Các tổ chức, cá nhân được tham gia hoạt động văn hóa nghệ thuật, nhưng phải tuân thủ các quy định pháp luật có liên quan. Triển khai, thực hiện hiệu quả xã hội hóa trong bảo tồn, phát huy các giá trị di tích lịch sử cách mạng.
Thường xuyên tổ chức các buổi tuyên truyền, giáo dục ý thức cho người dân trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử cách mạng; duy trì các phong tục, tập quán tốt đẹp vừa giữ gìn nét đẹp văn hóa truyền thống, vừa khai thác phát triển du lịch bền vững cho tương lai.Làm tốt sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di tích (một mảng quan trọng của di sản văn hóa) tức là chúng ta đã làm trọn bổn phận của mình với cha ông, với cộng đồng đương đại và với các thế hệ mai sau...
Luật MInh KHuê (sưu tầm & biên tập)