Mục lục bài viết
1. Tổng quan về Thông tư 80/2021/TT-BTC
Ngày 29/9/2021, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 80/2021/TT-BTC, nhằm hướng dẫn thực hiện Luật Quản lý thuế và Nghị định 126/2020/NĐ-CP. Thông tư này quy định chi tiết về các khoản thu ngân sách nhà nước mà cơ quan thuế quản lý, theo các điều khoản của Luật Quản lý thuế và Nghị định 126/2020. Cụ thể, Thông tư hướng dẫn các vấn đề liên quan đến đồng tiền khai thuế, nộp thuế bằng ngoại tệ và tỷ giá quy đổi; nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng tư vấn thuế cấp xã; quy trình khai thuế, tính thuế, phân bổ nghĩa vụ thuế, mẫu biểu khai thuế; các phương thức xử lý chậm nộp thuế, xử lý tiền thuế nộp thừa, và các hồ sơ liên quan đến thuế như gia hạn nộp thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế, và xóa nợ thuế. Thông tư cũng quy định trình tự, thủ tục kiểm tra thuế, quản lý thuế đối với kinh doanh điện tử và dịch vụ của nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, cùng với kinh phí uỷ nhiệm thu. Đối tượng áp dụng Thông tư bao gồm người nộp thuế, cơ quan thuế, công chức thuế và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định tại Điều 2 của Luật Quản lý thuế.
2. Điểm mới của Thông tư 80/2021/TT-BTC hướng dẫn Luật Quản lý thuế
Điểm mới của Thông tư 80/2021/TT-BTC hướng dẫn Luật Quản lý thuế như sau:
Về đồng tiền khai thuế, nộp thuế bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi (Điều 4)
Thông tư số 80/2021/TT-BTC, ban hành ngày 29/9/2021, đã mang đến một số điểm mới quan trọng trong việc quy định đồng tiền khai thuế và nộp thuế bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.
Điểm mới thứ nhất là việc sửa đổi và bổ sung quy định về khai và nộp thuế bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi đối với các khoản phí, lệ phí và các khoản thu khác mà các cơ quan đại diện của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài thực hiện thu. Đồng thời, các cơ quan và tổ chức tại Việt Nam cũng được phép thu phí và lệ phí bằng ngoại tệ. Trước đây, theo Thông tư số 156/2013/TT-BTC, đồng tiền khai và nộp phí, lệ phí phải là Đồng Việt Nam, và nếu người nộp thuế có phát sinh thu phí, lệ phí bằng ngoại tệ, họ phải chuyển đổi sang Đồng Việt Nam khi kê khai và nộp vào ngân sách nhà nước. Quy định mới này giúp đơn giản hóa quy trình cho người nộp thuế bằng cách không yêu cầu chuyển đổi từ ngoại tệ sang Đồng Việt Nam.
Điểm mới thứ hai là việc sửa đổi quy định về đồng tiền khai và nộp thuế đối với các khoản thu từ hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí. Theo quy định trước đây, đồng USD được sử dụng để khai và nộp thuế đối với các khoản thu từ hoạt động này (hoặc đồng Việt Nam nếu bán trong nước). Tuy nhiên, quy định mới cho phép sử dụng ngoại tệ trong giao dịch thanh toán, giúp người nộp thuế không phải chuyển đổi từ đồng tiền thu được trong thanh toán sang đồng tiền khai và nộp thuế.
Điểm mới thứ ba bổ sung quy định về việc khai và nộp thuế bằng ngoại tệ đối với các khoản thu từ nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, khi họ có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác tại Việt Nam. Trước đây, không có quy định cụ thể về vấn đề này, nhưng quy định mới cho phép các nhà cung cấp nước ngoài lựa chọn một loại ngoại tệ trong các loại ngoại tệ tự do chuyển đổi đang sử dụng trong giao dịch thanh toán để làm đồng tiền khai và nộp thuế tại Việt Nam. Điều này giúp giảm bớt khó khăn cho các nhà cung cấp nước ngoài bằng cách không yêu cầu họ phải chuyển đổi giữa đồng tiền thu được từ khách hàng và đồng tiền dùng để khai thuế, nộp thuế.
Về tỷ giá giao dịch thực tế (Điều 4)
Thông tư số 80/2021/TT-BTC, ban hành ngày 29/9/2021, đã có những điểm mới đáng chú ý về tỷ giá giao dịch thực tế tại Điều 4. Cụ thể, Thông tư đã bỏ quy định trước đây về tỷ giá xác định doanh thu, chi phí, giá tính thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước. Thay vào đó, tỷ giá được áp dụng theo quy định của pháp luật về kế toán, nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa quy định về quản lý thuế và quy định về kế toán. Quy định mới này tạo thuận lợi cho người nộp thuế trong việc áp dụng tỷ giá để chuyển đổi doanh thu, chi phí, giá tính thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước bằng ngoại tệ sang Đồng Việt Nam khi kê khai và nộp thuế. Trước đây, theo các Thông tư như số 26/2015/TT-BTC, số 56/2008/TT-BTC, số 22/2010/TT-BTC, số 176/2014/TT-BTC và số 36/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính, có quy định cụ thể về tỷ giá để xác định các khoản thuế và nộp ngân sách, nhưng những quy định này chưa hoàn toàn thống nhất với hướng dẫn về chế độ kế toán doanh nghiệp theo Thông tư số 200/2014/TT-BTC. Điều này dẫn đến sự không đồng bộ giữa quy định quản lý thuế và kế toán, tạo ra khó khăn khi pháp luật kế toán thay đổi. Quy định mới trong Thông tư 80/2021/TT-BTC giúp khắc phục vấn đề này bằng cách áp dụng theo quy định pháp luật về kế toán, đảm bảo tính đồng bộ và thuận tiện hơn cho người nộp thuế.
Về phân bổ nghĩa vụ thuế của người nộp thuế hạch toán tập trung có đơn vị phụ thuộc, địa điểm kinh doanh tại tỉnh khác nơi có trụ sở chính (Điều 12)
Thông tư số 80/2021/TT-BTC, ban hành ngày 29/9/2021, đã đưa ra một số điểm mới quan trọng liên quan đến việc phân bổ nghĩa vụ thuế cho người nộp thuế hạch toán tập trung có đơn vị phụ thuộc hoặc địa điểm kinh doanh tại các tỉnh khác với nơi có trụ sở chính.
Điểm mới đầu tiên là việc bổ sung các quy định chung về nguyên tắc phân bổ, nguyên tắc khai thuế, tính thuế, và quyết toán thuế đối với các loại thuế phải phân bổ cho người nộp thuế có hoạt động kinh doanh trên nhiều địa bàn cấp tỉnh khác với nơi đóng trụ sở chính, và thực hiện hạch toán tập trung tại trụ sở chính. Quy định mới này căn cứ vào các điều khoản tại khoản 2 và khoản 4 Điều 11 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP và Điều 13 đến Điều 19 của Thông tư số 80/2021/TT-BTC. Trước đây, tại Thông tư số 156/2013/TT-BTC và các văn bản sửa đổi, mặc dù đã có quy định về nguyên tắc phân bổ, khai thuế, tính thuế và quyết toán thuế, nhưng các quy định này còn phân tán và không tập trung, rải rác ở các điều, khoản khác nhau.
Điểm mới thứ hai là sửa đổi quy định về việc nộp các khoản thuế phân bổ vào ngân sách nhà nước của các địa phương nơi có đơn vị phụ thuộc hoặc địa điểm kinh doanh. Theo quy định mới, người nộp thuế chỉ cần lập một chứng từ nộp tiền cho ngân sách nhà nước của từng tỉnh, thay vì phải lập nhiều chứng từ cho mỗi tỉnh như trước đây. Kho bạc Nhà nước nơi tiếp nhận chứng từ sẽ có trách nhiệm hạch toán thu ngân sách cho từng địa bàn cấp tỉnh nơi có khoản thu phân bổ. Quy định này thay thế phương thức cũ theo Thông tư số 156/2013/TT-BTC, trong đó yêu cầu người nộp thuế lập mỗi tỉnh một chứng từ nộp thuế và nộp tiền vào ngân sách nhà nước của từng tỉnh riêng biệt.
Điểm mới thứ ba bổ sung quy định cụ thể về việc xử lý khi qua thanh tra, kiểm tra, cơ quan thuế phát hiện người nộp thuế kê khai không đúng quy định. Trong trường hợp này, cơ quan thuế sẽ xác định lại số thuế phải phân bổ cho các tỉnh nơi được hưởng nguồn thu phân bổ theo đúng quy định, nhằm đảm bảo việc xác định đúng nguồn thu cho từng tỉnh và xử lý vi phạm (nếu có). Quy định này giúp nâng cao tính chính xác trong việc phân bổ thuế và đảm bảo sự công bằng trong việc thu nộp ngân sách nhà nước.
Về phân bổ thuế giá trị gia tăng (GTGT) phải nộp, trừ nhà máy thủy điện nằm trên nhiều tỉnh (Điều 13)
Thông tư số 80/2021/TT-BTC đã đưa ra nhiều điểm mới quan trọng liên quan đến việc phân bổ thuế giá trị gia tăng (GTGT) phải nộp, đặc biệt trong trường hợp nhà máy thủy điện nằm trên nhiều tỉnh. Những điểm mới này chủ yếu tập trung vào việc sửa đổi quy định về khai thuế và bù trừ số thuế GTGT, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người nộp thuế.
Điểm mới đầu tiên là việc sửa đổi quy định về tỷ lệ khai thuế GTGT đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản tại các tỉnh khác với nơi đóng trụ sở chính. Theo Thông tư mới, tỷ lệ khai thuế GTGT đã được giảm từ 2% xuống 1% trên doanh thu chưa có thuế GTGT của hoạt động chuyển nhượng bất động sản tại từng tỉnh. Đồng thời, quy định về cách thức bù trừ số thuế GTGT đã nộp của hoạt động chuyển nhượng bất động sản với số thuế phải nộp tại trụ sở chính cũng đã được thay đổi. Cụ thể, người nộp thuế không còn phải kê khai số thuế đã nộp vào tờ khai thuế mà cơ quan thuế sẽ tự thực hiện luân chuyển chứng từ nộp tiền để bù trừ số thuế giữa các tỉnh và trụ sở chính. Trước đây, theo Thông tư số 156/2013/TT-BTC, tỷ lệ khai thuế là 2% và người nộp thuế phải kê khai và bù trừ số thuế GTGT đã nộp qua tờ khai thuế tại trụ sở chính.
Điểm mới thứ hai liên quan đến việc khai thuế GTGT đối với hoạt động xây dựng tại tỉnh khác với nơi đóng trụ sở chính. Tỷ lệ khai thuế GTGT đã được giảm từ 2% xuống 1% trên doanh thu của công trình hoặc hạng mục công trình xây dựng tại từng tỉnh, hoặc công trình xây dựng liên quan tới nhiều tỉnh. Tương tự như quy định về chuyển nhượng bất động sản, cách thức bù trừ số thuế GTGT đã nộp của hoạt động xây dựng với số thuế phải nộp tại trụ sở chính cũng đã được cơ quan thuế thực hiện tự động thay vì người nộp thuế phải kê khai. Trước đây, theo Thông tư số 156/2013/TT-BTC, tỷ lệ khai thuế cũng là 2%, và người nộp thuế phải kê khai số thuế GTGT đã nộp để bù trừ.
Điểm mới thứ ba là việc bỏ quy định khai thuế GTGT đối với hoạt động bán hàng tại tỉnh khác với nơi đóng trụ sở chính mà không thành lập đơn vị trực thuộc tại tỉnh đó (hoạt động bán hàng vãng lai ngoại tỉnh). Trước đây, người nộp thuế phải nộp hồ sơ khai thuế GTGT và nộp tiền cho địa phương nơi có hoạt động bán hàng vãng lai ngoại tỉnh theo hướng dẫn của Thông tư số 156/2013/TT-BTC.
Điểm mới thứ tư là việc bỏ tiêu thức phân bổ thuế GTGT phải nộp đối với cơ sở sản xuất là đơn vị phụ thuộc ở tỉnh khác. Thay vì xác định doanh thu sản phẩm sản xuất ra trên cơ sở giá thành hoặc doanh thu sản phẩm cùng loại tại địa phương nơi có cơ sở sản xuất, quy định mới thống nhất việc không phân bổ thuế GTGT trong trường hợp cơ sở sản xuất điều chuyển thành phẩm hoặc bán thành phẩm trong nội bộ.
Điểm mới thứ năm là sửa đổi quy định về việc khai thuế GTGT của đơn vị phụ thuộc khác tỉnh. Theo quy định mới, đơn vị phụ thuộc phải khai thuế GTGT riêng và nộp hồ sơ khai thuế cho cơ quan thuế quản lý đơn vị phụ thuộc, thay vì chỉ khai thuế tập trung tại trụ sở chính. Điều này giúp theo dõi hạch toán thuế đầu ra, đầu vào một cách đầy đủ và chính xác hơn.
Điểm mới thứ sáu bổ sung quy định về phân bổ số thuế GTGT phải nộp đối với hoạt động kinh doanh xổ số điện toán khác tỉnh, thay thế hướng dẫn trước đây theo công văn số 4311/TCT-DNL.
Cuối cùng, điểm mới thứ bảy sửa đổi quy định về việc Kho bạc Nhà nước thực hiện khấu trừ thuế GTGT của các nhà thầu khi thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước. Tỷ lệ khấu trừ thuế GTGT được điều chỉnh xuống 1% trên doanh thu chưa có thuế GTGT của công trình, với cách xác định số thuế phải nộp cho từng tỉnh dựa trên tỷ lệ giá trị đầu tư của công trình tại từng tỉnh. Trước đây, theo Thông tư số 156/2013/TT-BTC, tỷ lệ khấu trừ thuế là 2%.
Những điểm mới này nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người nộp thuế và đảm bảo sự đồng bộ giữa các quy định về thuế và kế toán, đồng thời giảm bớt sự phức tạp trong việc khai thuế và phân bổ thuế GTGT.
3. Ảnh hưởng của Thông tư 80/2021/TT-BTC đến người nộp thuế và cơ quan thuế
Thông tư số 80/2021/TT-BTC đã tạo ra những ảnh hưởng đáng kể đến cả người nộp thuế và cơ quan thuế, với những thay đổi chủ yếu tập trung vào việc cải cách quy trình khai thuế và nộp thuế.
Đối với người nộp thuế, Thông tư này đã làm tăng cường tính minh bạch trong hoạt động khai thuế và nộp thuế, giúp cho các doanh nghiệp có cái nhìn rõ ràng hơn về các nghĩa vụ thuế của mình. Một trong những lợi ích nổi bật là việc giảm bớt chi phí tuân thủ, nhờ vào việc đơn giản hóa và rút gọn các thủ tục hành chính. Điều này không chỉ tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp mà còn giảm bớt thời gian và công sức cần thiết để thực hiện các nghĩa vụ thuế. Hơn nữa, những quy định mới của Thông tư còn giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả quản lý thuế, bởi việc khai báo và bù trừ thuế GTGT giờ đây trở nên dễ dàng và chính xác hơn, từ đó cải thiện khả năng kiểm soát tài chính của các doanh nghiệp.
Đối với cơ quan thuế, việc áp dụng Thông tư 80/2021/TT-BTC nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế một cách rõ rệt. Các quy định mới đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc theo dõi và thu hồi nợ thuế, đồng thời làm giảm thiểu tình trạng sai sót và khiếu nại từ người nộp thuế. Đặc biệt, việc cải cách quy trình khai thuế và bù trừ thuế cũng góp phần cải thiện hình ảnh của cơ quan thuế trong mắt người dân và doanh nghiệp, làm tăng sự tin tưởng và hợp tác từ phía các tổ chức và cá nhân nộp thuế. Những bước tiến này không chỉ nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan thuế mà còn góp phần xây dựng một môi trường thuế minh bạch, công bằng và hiệu quả hơn.
Tóm lại, Thông tư số 80/2021/TT-BTC đã mang lại những cải cách quan trọng trong quản lý thuế, đem lại lợi ích thiết thực cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế, đồng thời góp phần xây dựng một hệ thống thuế hiện đại và hiệu quả hơn.
Xem thêm bài viết: Trách nhiệm của cơ quan thuế trong việc quản lý thuế đối với hộ kinh doanh
Khi quý khách có thắc mắc về quy định pháp luật, vui lòng liên hệ đến hotline 19006162 hoặc gửi thư tư vấn đến email: lienhe@luatminhkhue.vn để được tư vấn.