Mục lục bài viết
Thưa luật sư,Tôi có một vấn đề mong luật sư giải đáp: Cho tôi xin hỏi về đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật thương mại quốc tế. Tôi xin chân thành cảm ơn và rất mong sự phản hồi từ các Quý Luật sư Công ty tư vấn Luật Minh KhuêTôi rất mong nhận được lời tư vấn vào địa chỉ email này.Người gửi: NV Thịnh
Chào bạn, cảm ơn đã tin tưởng, thắc mắc của bạn chúng tôi xin trả lời như sau:
1. Nội dung phân tích
Trước hết, để biết Luật thương mại quốc tế (LTMQT) là gì, bạn phải tìm hiểu khái niệm Thương mại quốc tế (TMQT).
TMQT bao gồm hai lĩnh vực:
+ Thứ nhất, hoạt động thương mại cụ thể, tức là việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ thông qua các hợp đồng thương mại quốc tế. Ngoài ra hoạt động TNQT còn biểu hiện trong các lĩnh vực khác như dịch vụ, đầu tư, thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.
+ Thứ hai, các vấn đề liên quan đến chính sách thương mại của các quốc gia trên thế giới như thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, thương mại liên quan đến sở hữu trí tuệ, thương mại đầu tư, các vấn đề về bán phá giá, tài trợ xuất khẩu… Đây có thể coi là những vấn đề thuộc lĩnh vực công.
Luật Thương mại quốc tế:
Có nhiều quan điểm về Luật thương mại quốc tế, bởi nó là một lĩnh vực rộng lớn và tồn tại các chủ thể phức tạp. LTMQ là một môn học điều chỉnh các hành vi thương mại có yếu tố quốc tế. Cũng có thể hiểu LTMQT là những quy tắc điều chỉnh hai lĩnh vực.
+ Thứ nhất: các quan hệ thương mại trong lĩnh vực công tức là các chính sách thương mại của các quốc gia; các khu vự kinh tế...
+ Thứ hai: các quan hệ giữa các thương nhân được phát sinh trong quá trình ký kết và thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế các quan hệ thuộc lĩnh vực tư (chủ yếu là các hợp đồng).
2. Khái niệm về luật thương mại
Black’s Law Dictionary giải nghĩa rằng “luật thương mại” (Commercial Law) là thuật ngữ được sử dụng để chỉ toàn bộ một ngành luật vật chất áp dụng cho các quyền lợi giao dịch và quan hệ của những người thực hành nghề nghiệp thương mại, buôn bán(commerce; trade; or mercantile pursuits). Petit Dictionnaire de Droit (Dalloz) giải nghĩa rằng “ luật thương mại” (Droit de Commerce) là ngành luật tư điều tiết mối quan hệ giữa các thương nhân hay các hành vi thương mại. Qua các định nghĩa trong các cuốn từ điển nổi tiếng này, chúng ta thấy có hai vấn đề lớn cần xem xét là thương nhân và hành vi thương mại.
1. Trên căn bản các quan niệm này, nhiều quốc gia trong khi xây dựng các đạo luật cũng xác định phạm vi áp dụng của đạo luật đối với các giao dịch thương mại (hay hành vi thương mại) giữa các chủ thể của luật thương mại với nhau. Các chủ thể này gồm hai nhóm là “thương nhân” (Trades or Merchants) và “phi thương nhân” (Non- Traders or Non- merchants). Các thương nhân là chủ thể thông thường của luật thương mại có quy chế riêng, còn các phi thương nhân chỉ trở thành chủ thể của luật thương mại khi tham gia giao dịch thương mại với thương nhân mà hành vi giao dịch này mang tính chuyên nghiệp của thương nhân, xác định nghề nghiệp của thương nhân.
Loại chủ thể thứ hai có thể gọi là chủ thể đặc biệt hay chủ thể phụ thuộc của luật thương mại. Có những quan điểm khác biệt, Bộ luật thương mại Nhật bản điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các thương nhân, giữa thương nhân và những người khác hoặc những quan hệ thương mại do các pháp nhân công pháp thực hiện (Điều 2, Điều 3). ở đây đã nhắc đến giao dịch thương mại giữa các chủ thể hoàn toàn không phải là thương nhân nhưng vẫn thuộc phạm vi điều chỉnh của luật thương mại. Cũng theo cách này, Điều 1 và Khoản 1, Điều 5 của Luật thương mại (Việt Nam) xác định các giao dịch thương mại (hay hành vi thương mại) bao gồm cả giao dịch giữa thương nhân đều với người không phải thương nhân nằm trong phạm vi điều chỉnh của luật thương mại.
Không giống thế, một số nước theo quan điểm tự do thương mại không có sự phân biệt giữa thương nhân và phi thương nhân. Chẳng hạn như Hoa kỳ, ngoài mục đích bảo vệ đặc biệt đối với người tiêu dùng và một số mục đích khác, bất kỳ người nào hoặc thực thể nào giao kết một hợp đồng đều thuộc phạm vi điều chỉnh của một ngành luật mà không kể là có hay không có một bên thực hiện công việc thương mại3[2]. ở Hà lan, theo Bộ luật thương mại năm 1838 có một phần nhỏ phân biệt giữa thương nhân và phi thương nhân, nhưng sự phân biệt này bị huỷ bỏ bởi một Đạo luật ngày 2/7/1934 và do đó Bộ luật nói trên áp dụng cho tất cả công dân4[3].
2. Việc xem xét một hành vi là hành vi thương mại tỏ ra rất phức tạp và có nhiều quan điểm hết sức khác nhau. Song ở đây cũng cần nêu một vài định nghĩa sơ bộ để có thể nói lên luật thương mại là gì.
Khoản1, Điều 2 của Bộ luật thương mại Czech cho rằng: “ Hành vi thương mại (cũng được xem như hành vi của thương nhân) được hiểu là một hoạt động do các thương nhân tiến hành một cách độc lập với danh tính của mình và tự chịu trách nhiệm nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận”.
Khoản1, Điều 5 của Luật thương mại Việt nam cũng sử dụng cách thức định nghĩa như trên, nhưng không làm rõ được các thuộc tính của hành vi thương mại. Điều khoản này viết: “ Hành vi thương mại là hành vi của thương nhân trong hoạt động thương mại làm phát sinh quyền và ” nghĩa vụ giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa các thương nhân với các bên có liên quan”.
Theo một cách khác, Luật miễn trừ quốc gia (the States Immunity Act) của Canada định nghĩa: “ Hoạt động thương mại có nghĩa là bất kỳ giao dịch, hành vi hoặc hoạt động cụ thể nào, hoặc bất kỳ phạm vi hoạt động thông thường nào mà bản chất của nó có đặc tính thương mại”.
Bởi sự khó khăn và phức tạp nên, Điều 632 và Điều 633 của Bộ luật thương mại Pháp đã sử dụng phương pháp liệt kê các hành vi thương mại để làm rõ nội hàm của khái niệm hành vi thương mại.
Bộ luật thương mại Nhật bản định nghĩa: “Từ thương nhân được sử dụng trong Bộ luật này có nghĩa là một người thực hiện các giao dịch thương mại như một công việc thường xuyên nhân danh bản thân mình” (Điều 4). Vậy điều đó chứng minh rằng khái niệm thương nhân và hành vi thương mại (hay nói cách khác là giao dịch thương mại) là hai khái niệm có mối quan hệ gắn bó không thể tách rời. Do đó, cần phải làm rõ cả hai khái niệm này trong mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Hành vi thương mại có tính chất khách quan và chúng ấn định nghề nghiệp của thương nhân, hay nói cách khác, chúng là dấu hiệu cơ bản để nhận rõ thương nhân, nếu họ lấy hành vi đó làm hoạt động thường xuyên của mình. Nhưng khi một hành vi không có bản chất thương mại được thương nhân thực hiện trong khi hành nghề thì cũng được coi là hành vi thương mại.
3. Phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại
Từ khái niệm trên, có thể nhận thấy Luật thương mại có phạm vi điều chỉnh, chính là:
- Các hoạt động của thương nhân như: đầu tư, mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động khác nhằm mục đích sinh lợi.
- Các hoạt động mang tính tổ chức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng liên quan trực tiếp đến hoạt động thương mại như: Đăng ký kinh doanh, kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh, thương mại; giải thể và phá sản doanh nghiệp.
4. Chủ thể của Luật thương mại
Chủ thể của Luật thương mại là những tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện để tham gia vào các quan hệ do Luật thương mại điều chỉnh.
Chủ thể của Luật thương mại phải đảm bảo các điều kiện sau đây:
- Thứ nhất, phải được thành lập hợp pháp. Được thành lập một cách hợp pháp nghĩa là các chủ thể của Luật thương mại được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập, hoặc đăng ký kinh doanh; có chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động rõ ràng; được tổ chức dưới một hình thức nhất định do pháp luật quy định (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty,…)
- Thứ hai, phải có tài sản. Tài sản là cơ sở vật chất không thể thiếu được để cho các chủ thể của Luật thương mại, đặc biệt là các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động kinh doanh. Trên thực tế, tài sản đó tồn tại dưới dạng vốn kinh doanh (vốn điều lệ, vốn pháp định). Khối lượng và cơ cấu tài sản cũng như khối lượng quyền năng của các doanh nghiệp có được đối với từng loại tài sản phụ thuộc và tính chất sở hữu, quy mô hoạt động từng chủ thể.
- Thứ ba, có thẩm quyền trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Đây là cơ sở pháp lý để các chủ thể Luật thương mại thực hiện các hành vi pháp lý nhằm tạo cho mình những quyền và nghĩa vụ cụ thể, đồng thời nó cũng quy định rõ giới hạn mà trong đó các chủ thể được hành động trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại.
- Chủ thể cơ bản, thường xuyên của Luật thương mại là các thương nhân. Đây là loại chủ thể thường xuyên tham gia các mối quan hệ thương mại thuộc đối tượng của Luật thương mại.
- Chủ thể không thường xuyên của Luật thương mại là cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế: Đó là cơ quan thay mặt nhà nước, nhân danh nhà nước thực hiện tổ chức quản lý, chỉ đạo các thương nhân tiến hành hoạt động kinh doanh thương mại như: Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND, các sở, phòng, ban…
5. Vai trò của người làm ngành luật thương mại quốc tế
Những người hành nghề thương mại quốc tế cũng có thể cần thiết để giúp khách hàng huy động vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài. Luật chứng khoán khác nhau giữa các quốc gia và trong nhiều trường hợp, các hiệp định thương mại quốc tế sẽ đặt ra các luật liên quan đến việc các thực thể từ các quốc gia thành viên có thể thu hút tài trợ từ các nhà đầu tư xuyên biên giới quốc gia như thế nào.
Ngoài ra, luật sư thương mại quốc tế có thể xử lý các loại nhiệm vụ khác sau đây:
• Tư vấn cho các doanh nghiệp liên quan đến nỗ lực mở rộng sang một quốc gia mới, bao gồm hỗ trợ để có được bất kỳ giấy phép cần thiết nào và tuân thủ các quy định hiện hành của ngành
• Tư vấn cho các doanh nghiệp liên quan đến các tiêu chuẩn mua sắm của chính phủ
• Vận động chính sách thương mại thay mặt khách hàng trước các cơ quan chính phủ hoặc quốc tế
• Đại diện của khách hàng liên quan đến kiện tụng thương mại quốc tế trước nhiều cơ quan và tổ chức
• Cấu trúc các giao dịch để tận dụng các luật thương mại thuận lợi
• Nỗ lực bảo vệ để bảo vệ tài sản trí tuệ trên toàn thế giới
BỘ PHẬN TƯ VẤN PHÁP LUẬT