Mục lục bài viết
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể - Mẫu số 1
Trong lịch sử Việt Nam, cuộc chiến Nguyễn Huệ chống lại quân Thanh xâm lược nổi tiếng là một thắng lợi vang dội, không chỉ giúp đánh đuổi giặc Thanh mà còn mang lại ấm no và hạnh phúc cho nhân dân. Sự kiện này diễn ra vào mùa xuân năm Kỷ Dậu, tức năm 1789 sau Công Nguyên, khi quân Thanh đang xâm lược bờ cõi nước ta.
Trước thảm họa của sự xâm lược, dân ta phải đối mặt với cuộc sống khổ sở và triều đình nhà Lê thì thối nát. Nguyễn Huệ, nhận thức được tình hình, đã dựng cờ khởi nghĩa và dẫn đầu cuộc kháng chiến. Mồng 5 của năm Kỷ Dậu, ông đã tổ chức duyệt binh và triển khai quân lính đi đánh giặc. Trong đoàn quân của Nguyễn Huệ, có một trăm thớt voi mạnh mẽ đứng đầu.
Khi tiến vào gặp quân thù, đoàn ngựa thấy voi đã kinh sợ và rút lui. Tuy nhiên, quân Thanh vẫn tiếp tục xây trại và thành lũy để chống cự. Trong giờ Ngọ cùng ngày, quân Nguyễn Huệ đã tiến hành tấn công bằng việc bắn hoả tiễn và sử dụng rạ bó to lăn tiên phong. Tinh thần chiến đấu cao độ và quyết tâm giết quân thù đã giúp quân ta giành thắng lợi nhanh chóng. Các trại của quân Thanh đã bị hủy hoại nặng nề.
Sau khi đề đốc quân Thanh là Hứa Thế Thanh quyết chiến và tử trận, quân Thanh tiếp tục mất đi sự lãnh đạo và chịu thêm tổn thất. Quân Nguyễn Huệ đã bao vây giặc từng đoàn nhỏ để tiến hành đánh. Khi thống soái Tôn Sĩ Nghị ra lệnh thực hiện cuộc tấn công truy kích, quân Thanh đã chịu thêm sát thương. Riêng Tôn Sĩ Nghị đã rút quân về phía bắc và chặt đứt cầu để ngăn cản quân ta.
Cuộc chiến này đã diễn ra với nhiều biến cố và sự hy sinh lớn từ cả hai bên. Tuy nhiên, sự quyết tâm và sức mạnh của quân Nguyễn Huệ đã đánh bại quân Thanh, đánh dấu một trang sử vinh quang trong lịch sử dân tộc. Đồng thời, từ cuộc chiến này, ta rút ra được bài học quý giá về chính nghĩa, đoàn kết và tinh thần dũng cảm của dân tộc Việt Nam, là những yếu tố quyết định cho những chiến thắng vĩ đại trong lịch sử.
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể - Mẫu số 2
Trong năm 1288, trận chiến trên sông Bạch Đằng đã diễn ra, đây là một sự kiện quan trọng trong cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược của quân Nguyên Mông do Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo cùng với sự chỉ huy của Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông đứng đầu, đối mặt với quân Nguyên do Ô Mã Nhi chỉ huy.
Sau khi gặp thất bại tại Trúc Động vào ngày 8 tháng 3 (tức ngày 9 tháng 4 năm 1288), Ô Mã Nhi đã không chọn đường biển để rút quân về mà thay vào đó quyết định lần theo con sông Bạch Đằng. Trần Hưng Đạo đã quyết định tổ chức một trận chiến lớn nhằm chống lại sự xâm lược của quân Mông Cổ vào lãnh thổ Đại Việt. Sau một đêm suy nghĩ kỹ lưỡng, ông đã nhớ lại chiến thuật của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng vào năm 938 và quyết định áp dụng nó vào cuộc chiến này.
Trần Hưng Đạo đã chỉ huy quân dân Đại Việt chuẩn bị một chiến thuật tinh vi trên sông Bạch Đằng, nơi mà đoàn thuyền của quân Nguyên sẽ phải đi qua khi họ rút lui. Ông đã ra lệnh cho người dùng gỗ lim và gỗ táu từ rừng kéo về bờ sông và đâm chúng xuống lòng sông tạo ra các bãi chông ngầm lớn, ẩn mình dưới mặt nước. Ngoài ra, ông cũng đã sắp xếp các trận mai phục ở nhiều điểm trên bờ sông, như Ghềnh Cốc, Đồng Cốc, Phong Cốc, sông Khoai, sông Thái, sông Gia Đức và Điền Công, cùng với bộ binh được bố trí ở Quảng Yên, dọc theo bờ bên trái sông Bạch Đằng. Sự kết hợp giữa các bãi chông và trận mai phục đã ngăn chặn quân địch khi thủy triều xuống. Trần Hưng Đạo đã nghiên cứu kỹ lưỡng về luật thủy triều của con sông này để lên kế hoạch đặt cọc mai phục quân Mông Nguyên.
Khi Ô Mã Nhi và đoàn thuyền tiến vào sông Bạch Đằng trong khi nước đang lớn, quân Đại Việt đã tiến ra giao chiến. Sau đó, họ giả vờ thua cuộc và chạy vào sâu hơn. Ô Mã Nhi, nhận ra kế hoạch này, đã thúc quân ra chiến đấu và rơi vào trận mai phục của Nguyễn Khoái ở vùng đóng cọc. Quân Đại Việt đợi ở bờ sông và tiến vào khi thủy triều xuống, tấn công trực tiếp vào địch.
Thủy quân Đại Việt từ Hải Dương đến Vân Trà đã nhanh chóng tiến vào sông Bạch Đằng, với hàng trăm chiến thuyền cùng với quân lính các lộ dàn ra trên sông và tận dụng Ghềnh Cốc để chặn đầu thuyền địch. Đồng thời, đoàn thuyền do hai vua Trần chỉ huy cũng tấn công từ phía sau, gây ra nhiều tổn thất cho quân Nguyên. Nhiều thuyền của quân Nguyên bị hỏa hoạn và nhiều quân lính đã bỏ thuyền chạy lên bờ, nhưng lại rơi vào trận phục kích của quân Đại Việt. Ô Mã Nhi và quân Nguyên đã cố gắng chống trả trong tuyệt vọng nhưng không thành công, dẫn đến việc toàn bộ quân đội của họ bị tiêu diệt.
Trận đánh Bạch Đằng năm 1288 đã là một chiến thắng vang dội, khi hơn 400 chiếc thuyền của quân Nguyên đã bị bắt, cùng với việc bắt sống tướng Tích Lệ Cơ và Ô Mã Nhi, loại bỏ hơn 4 vạn tướng sĩ quân Nguyên khỏi trận chiến. Tướng Nguyên Phan Tiếp đã bị bắt sống và sau đó chết vì bệnh, trong khi tướng Phạm Nhân đã bị Trần Quốc Tuấn trảm quyết. Thủy quân của quân Nguyên hoàn toàn bị tiêu diệt.
Cuộc chiến này đã là một thắng lợi vang dội, đánh dấu một trang sử vinh quang của dân tộc Việt Nam. Tài năng tư duy chiến lược của các tướng lĩnh cùng với tinh thần dũng cảm chiến đấu của nhân dân đã được truyền bá và tôn vinh qua thời gian.
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể - Mẫu số 3
Trong quá trình trải nghiệm và nghe kể về lịch sử dân tộc, em đã tiếp cận với vô số câu chuyện về những anh hùng hào kiệt, những trang sử hào hùng của quê hương. Trong đó, một trong những trận khởi nghĩa đặc biệt được nhắc đến là cuộc đấu tranh của Lý Bí vào mùa xuân năm 542.
Lý Bí, một người gốc Trung Quốc, đã rời bỏ quê nhà để tìm kiếm tự do và lập nghiệp tại nước ta. Từ lâu, ông đã nuối tiếc sâu sắc và căm ghét bọn đô hộ từ phương Bắc. Nhà Lương, thực thể đô hộ, đã thiết lập chính sách áp bức, phân biệt đối xử và tạo ra một hệ thống địa chức chỉ có tôn thất nhà Lương và những dòng họ lớn mới được ưu ái và giữ lại quyền lực. Đối diện với những chính sách độc đoán này và hàng loạt các loại thuế không lý do, Lý Bí, từ một quan nhỏ giữ vị trí chỉ huy quân đội ở Đức Châu (khu vực tương đương với Nghệ An - Hà Tĩnh ngày nay), đã chán chường từ chức và bắt đầu lập kế hoạch kín đáo cùng với những người dũng cảm trong khu vực để nổi dậy.
Khi Lý Bí khẳng định sự khởi nghĩa ở quê hương Thái Bình (gần Sơn Tây ngày nay) vào mùa xuân năm 542, sự ủng hộ từ mọi ngóc ngách đã đến với ông. Sự đoàn kết của các hào kiệt đã giúp cho quân đội của Lý Bí chỉ trong thời gian ngắn không đầy ba tháng đã tái chiếm được toàn bộ các địa bàn trên lãnh thổ. Trước sức mạnh của quân nghĩa và lòng dũng cảm của các tướng lĩnh, nhà Lương đã phải điều binh đội quân để đàn áp. Tuy nhiên, quân đội của Lý Bí đã tự tạo ra cơ hội và tận dụng lợi thế để tiến vào phương Bắc, đánh bại quân Lương.
Đến năm 543, quân Lương tiếp tục gửi binh đội tới, và một lần nữa, quân đội của Lý Bí đã chứng minh sức mạnh của mình bằng một trận đánh gay gắt, gây ra tỷ lệ thiệt hại lớn đối với quân địch. Cuối cùng, các tướng lĩnh của nhà Lương đều bị tiêu diệt, mở đường cho Lý Bí lên ngôi vua với danh hiệu là Lý Nam Đế, khởi đầu cho việc thành lập nhà nước Vạn Xuân.
Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí không chỉ là một sự kiện lịch sử, mà còn là biểu tượng của sự đoàn kết, ý chí chiến đấu và quyết tâm của nhân dân Việt Nam. Được thúc đẩy bởi sự căm ghét với chế độ đô hộ, họ đã quyết tâm đấu tranh, hy vọng khôi phục lại độc lập và tự chủ cho dân tộc.
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể - Mẫu số 4
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử với sự dựng nước và bảo vệ biên giới, dân tộc Việt đã lịch sự vượt qua những thách thức, đối mặt với không ít thế lực thù địch từ bên ngoài. Trong số những trận đánh hào hùng, không thể không nhắc đến trận chiến trên dòng sông Bạch Đằng vào năm 938.
Vào cuối năm 938, quân Nam Hán lần thứ hai xâm nhập vào lãnh thổ của chúng ta, lựa chọn biển đại dương làm con đường tấn công. Ngô Quyền, hiểu rõ tình hình, đã khéo léo sử dụng cơ hội và địa thế chiến lược của sông Bạch Đằng để sắp đặt lực lượng và chiến pháp. Ông đã ra lệnh cho quân lính chôn vùi cọc gỗ dưới đáy sông và tận dụng triều cường để sắp đặt một mạng lưới phòng thủ khó lòng vượt qua.
Khi kẻ thù tiến đến cửa sông, Ngô Quyền đã sắp xếp một lực lượng nhỏ ra đánh mạnh mẽ để lừa bắt. Quân Nam Hán, bị hớp hồn, đã đuổi theo mà không hề hay biết rằng họ đã rơi vào bẫy đã được sắp đặt từ trước. Khi triều cường rút xuống, lực lượng Việt Nam đã tấn công từ phía sau, làm cho kẻ thù hoàn toàn không kịp phản ứng. Đa số thuyền của địch bị mắc cạn trên những cọc gỗ ẩn sau mặt nước, và quân địch bị tiêu diệt hoặc chết đuối trong sự hỗn loạn.
Sự quyết liệt của quân Việt Nam đã khiến con trai của vua Nam Hán Hoằng Tháo cũng tử vong trong trận đánh. Đại ông Ngô Quyền đã lợi dụng cơ hội này để ra lệnh rút quân và dẹp tan hoàn toàn cuộc xâm lược của kẻ thù.
Chiến thắng này không chỉ là một thắng lợi về quân sự mà còn là một biểu tượng cho tinh thần không khuất phục và sự quyết đoán của dân tộc Việt Nam. Hy vọng một ngày nào đó, chúng ta sẽ có cơ hội đến thăm di tích của trận chiến trên sông Bạch Đằng, để tưởng nhớ những anh hùng vàng son đã ghi dấu cho sự kiên cường và dũng mãnh của chúng ta.