1. Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy
Mỗi năm xuân về, mọi người trở về với gia đình, cùng nhau chuẩn bị cho một cái Tết đủ đầy, sum vầy bên nhau. Một trong những món ăn không thể thiếu trong mâm cỗ Tết truyền thống của người Việt chính là bánh chưng, bánh giày. Bên bếp lửa bập bùng, ngồi canh nồi bánh chưng đang luộc dở, câu chuyện về truyền thuyết bánh chưng bánh giày lại hiện lên trong tâm trí em.
Ngày xửa ngày xưa, khi mà vua Hùng Vương thứ sáu đã về già và muốn truyền lại ngôi báu cho con. Thế nhưng ngài lại có tới hai mươi người con trai mà ngôi báu chỉ có một, nên vua muốn tìm ra một người con thật xứng đáng cho vị trí này. Chính vì vậy, Hùng Vương bèn cho gọi các con đến và nói:
- Mảnh đất Lạc Việt của chúng ta từ buổi đầu dựng nước đã truyền qua sáu đời. Giặc ngoại xâm đã nhiều lần sang xâm lược nước ta nhưng nhờ phúc ấm của Tiên vương chúng ta đều đánh đuổi được, bảo vệ đất nước được thanh bình. Nay ta đã già, ta muốn tìm một người nối ngôi để chăm lo cho dân chúng được ấm no, hạnh phúc. Người nối ngôi không nhất thế phải là con trưởng mà phải là người nối được chí ta. Năm nay, nhân lễ Tiên vương, ai dâng đồ tế lễ vừa ý ta, ta sẽ truyền lại ngôi cho người đó. Xin Tiên Vương chứng giám.
Thấy vậy, các lang liền toả đi khắp các vùng tìm đủ thứ vàng bạc châu báu, của ngon vật lạ quý hiếm để dâng lên lễ Tiên vương mong vừa ý vua cha. Lúc này, Lang Liêu - người con trai thứ mười tám của vua Hùng đang rất bối rối, lo lắng không biết làm như thế nào. Chàng là một người hiền hậu, chăm chỉ và rất mực hiếu thảo nhưng chẳng may mẹ mất sớm, thiếu người chỉ dẫn nên chàng không biết nên làm món gì để dâng lên ngày lễ Tiên vương.
Một đêm, trong giấc mộng Lang Liêu được một vị thần đến chỉ bảo: "Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng hạt gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người, ăn mãi không chán. Con hãy lấy gạo nếp làm thành bánh hình tròn và hình vuông để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình cho Cha Mẹ sinh thành.
Tỉnh giấc, Lang Liêu vô cùng mừng rỡ. Theo lời dặn của thần, chàng chọn những hạt gạo nếp trắng tinh, căng tròn, dẻo thơm để làm ra những chiếc bánh vuông vức, dùng đậu xanh và thịt để làm nhân, tượng trưng cho Đất. Chàng lại dùng lá dong xanh tươi bọc bên ngoài, dùng lạt mềm buộc lại cẩn thận rồi đem đi luộc thật kĩ. Cũng với những hạt gạo nếp dẻo mềm ấy, chàng mang đi đồ xôi, giã nhuyễn rồi nặn thành những chiếc bánh tròn trịa tượng trưng cho Trời.
Cuối cùng ngày lễ Tiên vương đã tới, các lang đến mang theo biết bao nhiêu là loại sơn hào hải vị, mâm cao cỗ đầy để dâng lên. Trong khi đó, mâm cỗ của Lang Liêu chỉ vỏn vẹn hai loại bánh. Thế nhưng sau khi xem qua một lượt, Hùng Vương lại dừng lại rất lâu trước mâm bánh của Lang Liêu, tỏ vẻ rất hài lòng. Vua cha cho gọi Lang Liêu đến để hỏi về thứ bánh này. Chàng đã kể lại toàn bộ câu chuyện nằm mơ thấy thần chỉ bảo vào giải thích về các loại nguyên liệu, cách làm cũng như ý nghĩa của từng loại bánh. Nhà vua đã quyết định chọn hai thứ bánh này để đem tế lễ.
Sau đó, vua Hùng nếm thử thấy bánh rất ngon lại mang nhiều ý nghĩa bèn cho vời mọi người lại, truyền rằng: "Những chiếc bánh hình tròn này tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Những chiếc bánh vuông tượng trưng cho Đất, ta đặt tên là bánh chưng. Bánh có thịt mỡ, đậu xanh, lá dong... tượng trưng cho muông thú, cây cỏ muôn loài...; lá bọc bên ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý nhắc nhở con người cần phải sống tương thân tương ái, đùm bọc lẫn nhau. Lang Liêu đã dâng lễ vật rất hợp với ý ta, vậy nên ta sẽ truyền lại ngôi báu cho con".
Kể từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi. Và bánh chưng, bánh giày cùng với phong tục cúng lễ tổ tiên ngày tết vẫn còn được truyền lại đến ngày nay. Truyền thuyết bánh chưng, bánh giầy bên cạnh việc lí giải về nguồn gốc của hai loại bánh này còn ca ngợi công lao dựng nước và giữ nước của các vị vua Hùng.
2. Truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên
Mỗi người Việt Nam chúng ta khi được sinh ra ai cũng mang trong mình một niềm tự hào dân tộc, tự hào về cội nguồn của mình. Truyền thuyết "Con Rồng cháu Tiên" là một câu chuyện giải thích về nguồn cội cha ông đầy vẻ vang của dân tộc ta, là một truyền thuyết mà được lưu truyền đến mãi muôn đời sau.
Thuở xưa, ở miền đất Lạc Việt, vùng Bắc Bộ nước ta ngày nay có một vị thần thuộc giống rồng, con trai thần Long Nữ tên là Lạc Long Quân. Thần hình rồng, có sức khoẻ vô địch lại có nhiều phép lạ. Thần thường hay giúp đỡ nhân dân diệt trừ các loại yêu quái hay quấy nhiễ làm hại dân lành như: Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh...Thần còn dạy cho dân chúng cách trồng trọt, chăn nuôi. Ngày ấy, ở vùng núi cao phương Bắc có một nàng tiên nữ thuộc họ Thần Nông xinh đẹp tuyệt trần tên là Âu Cơ. Nghe danh vùng đất Lạc có nhiều hoa thơm cỏ lạ nên nàng tìm đến thăm. Ở đây, nàng gặp Lạc Long Quân và đem lòng cảm mến nhau rồi trở thành vợ chồng, cả hai cùng chung sống hạnh phúc ở cung điện Long Trang.
Một thời gian sau, Âu Cơ có mang. Đến ngày sinh nở, một chuyện kì lạ đã xảy ra: nàng sinh ra một bọc trăm trứng; trăm trứng này nở ra trăm người con đẹp đẽ lạ thường. Đàn con của nàng không cần bú mớm mà tự lớn nhanh như thổi, mặt mũi khôi ngô, khoẻ mạnh như thần. Thời gian cứ thế trôi qua, Lạc Long Quân vốn quen ở nước cảm thấy rằng mình không thể sống mãi trên cạn như này nên đã từ biệt Âu Cơ và các con để trở về thuỷ cung. Những ngày tháng đó Âu Cơ phải một mình nuôi con, chờ mong trong buồn tủi. Ngày nọ, nàng gọi chồng lên và than thở:
- Sao chàng bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi các con ?
Lạc Long Quân đáp:
- Ta vốn nòi rồng ở miền nước thẳm, nàng là tiên ở chốn non cao, Người sống trên cạn, kẻ ở dưới nước nên tính tình, tập quán khác nhau, khó mà ăn ở cùng nhau ở một nơi lâu dài được. Giờ đây ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Kẻ miền núi, người miền biển, khi có việc gì thì giúp đỡ nhau, đừng quên lời hẹn thề.
Âu Cơ nghe theo sự sắp đặt của chồng, đem theo năm mươi người con lên rừng. Người con trưởng đi theo Âu Cơ lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đóng đô ở đất Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang. Triều đình có tướng văn, tướng võ; con trai của vua gọi là lang, con gái vua gọi là mị nương; khi cha chết thì ngôi được truyền cho con trưởng, mười mấy đời truyền nối ngôi vua đều lấy hiệu là Hùng Vương, không hề thay đổi.
Từ truyền thuyết này mà khi nhắc đến nguồn gốc của mình, người Việt ta thường xưng là con Rồng cháu Tiên. Truyền thuyết này đã lí giải về nguồn cội và đề cao sức mạnh đoàn kết, thống nhất của cộng đồng người Việt. Đồng thời, truyền thuyết cũng lý giải được về sự phân bố dân cư của nước ta.
3. Truyền thuyết Sơn Tinh, Thuỷ Tinh
Kho tàng văn học dân gian Việt Nam có rất nhiều những truyền thuyết hay, một trong số đó là truyền thuyết Sơn Tinh, Thuỷ Tinh. Truyền thuyệt này có nhiều những chi tiết sinh động trong cuộc đấu đầy gay cấn để lấy được nàng Mị Nuơng xinh đẹp giữa hai vị thần Sơn Tinh và Thuỷ Tinh.
Ngày xưa, vua Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương. Nàng đẹp như hoa, tính nết lại dịu hiền nên được vua cha yêu thương hết mực. Năm đó, khi mà Mị Nương đã đến tuổi lấy chồng, nhà vua muốn kén được một chàng rể trí dũng, tài ba để xứng đáng với sắc đẹp của nàng.
Nghe tin nhà vua kén rể, có rất nhiều chàng trai mong muốn lấy được nàng công chúa xinh đẹp này. Một ngày nọ, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người đến từ vùng núi Tản Viên, người ta thường gọi chàng là Sơn Tinh. Chàng có tài vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Một người kia đến từ miền biển, tài năng cũng không kém: gọi gió, gió đến; hô mưa, mưa về. Mọi người gọi chàng là Thuỷ Tinh. Cả hai người đều tài giỏi, xứng đáng trở thành rể của vua Hùng. Vua Hùng băn khoăn không biết lựa chọn ai nên cho mời các Lạc hầu và bàn bạc. Xong xuôi, vua phán rằng:
- Hai chàng đều xứng đáng làm con rể ta, tuy nhiên ta lại chỉ có một người con gái nên không thể gả cho cả hai chàng được. Vì vậy, ngày mai ai đem sính lễ đến trước thì ta sẽ gả con gái cho. Sính lễ gồm có: một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi".
Ngày hôm sau, mới tờ mờ sáng Sơn Tinh đã mang đầy đủ các lễ vật đến để rước Mị Nương về. Mãi đến gần trưa Thuỷ Tinh mới đến, không lấy được vợ nên nổi giận, làm phép đuổi đánh Sơn Tinh đòi cướp lại Mị Nương. Thần hô mưa, gọi gió làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên cuồn cuộn đánh Sơn Tinh. Nước ngập ruộng đồng, nước ngập nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi, sườn núi, thành Phong Châu như nổi lềnh bềnh trên một biển nước. Thế nhưng Sơn Tinh không hề nao núng, chàng dùng phép thuật của mình để bốc từng dãy núi, ngọn đồi đắp lên thành một con đê khổng lồ, vững chắc để ngăn chặn dòng nước lũ. Cuộc chiến này kéo dài tưởng chừng không có hồi kết, thế nhưng sức Thuỷ Tinh đã đuối mà Sơn Tinh vẫn vững vàng nên đã vội rút quân về.
Thuỷ Tinh vẫn mang một nỗi thù oán nặng sâu nên hằng năm vẫn dâng nước lên đánh Sơn Tinh mong cướp lại được Mị Nương về. Nhưng năm nào cũng vậy, Thuỷ Tinh đánh mãi cũng không thắng nổi Sơn Tinh nên lại rút quân về.
4. Truyền thuyết Thánh Gióng
Từ những ngày còn bé, chúng ta lớn lên bằng những câu chuyện mà bà và mẹ kể, những câu chuyện về lịch sử hào hùng cũng như những truyền thuyết li kì. Từ những câu chuyện đấy đã gieo trong chúng ta những niềm tự hào và tôn kính những người anh hùng trong truyền thuyết của dân tộc. Truyền thuyết Thánh Gióng là một trong những truyền thuyết kể về một vị anh hùng oai phong, lẫm liệt của dân tộc.
Vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão nọ chăm chỉ làm ăn lại có tiếng là phúc đức. Ấy vậy mà hai người mãi không có lấy nổi một mụn con. Một ngày nọ, khi bà lão ra đồng bỗng trông thấy một vết chân rất to, bà lại đặt chân mình lên ướm thử. Kì lạ thay, khi về bà lại thụ thai và mười hai tháng sau sinh ra một người con trai rất khôi ngô. Hai vợ chồng vô cùng mừng rỡ.Thế nhưng thời gian thấm thoắt trôi qua, đứa trẻ lên ba tuổi nhưng vẫn không biết nói cười, cũng chẳng biết đi, chỉ đặt đâu là nằm đó.
Hồi bấy giờ giặc Ân đến xâm chiếm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo lắng nên sai sứ giả đi tìm người tài cứu nước. Thần kì thay, khi nghe thấy tiếng rao của sứ giả, đứa bé bỗng dưng lại nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Khi sứ giả đến, đứa bé bảo: "Ông hãy về tâu với vua làm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ đánh tan lũ giặc này". Sứ giả vừa vô cùng kinh ngạc. vừa mừng rỡ vội vàng về tâu lên vua. Nhà vua đã cho những người thợ gấp rút ngày đêm làm những vật phẩm mà cậu bé yêu cầu.
Lạ lùng hơn nữa, sau ngày gặp sứ giả cậu bé lại lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, quần áo vừa mặc vào đã đứt chỉ. Hai vợ chồng ông lão làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con nên phải nhờ cậy bà con làng xóm. Mọi người đều vui lòng góp gạo nuôi cậu bé, chỉ mong rằng cậu sẽ giết giặc, trừ hoạ cho dân.
Ngày đó, khi mà giặc vừa đến sát chân núi Trâu thì sứ giả cũng kịp mang vũ khó tới. Gióng bèn vươn vai đứng dậy, lập tức trở thành một tráng sĩ, khoác áo giáp, cầm roi sắt, chào mẹ và dân làng rồi nhảy lên ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng và đánh giết, giặc chết như ngả rạ. Bỗng dưng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường để quật vào giặc. Khi đánh cho chúng đến tan tác, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc. Đến đây, một mình một ngựa, tráng sĩ đã lên đến đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, vái tạ mẹ rồi cả người lẫn ngựa đều từ từ bay lên người.
Để tưởng nhớ công ơn của tráng sĩ, vua đã phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay tại quê nhà. Hiện nay, đền thờ vẫn còn ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa in xuống ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ nối tiếp nhau, là di tích chứng minh cho chiến công oanh liệt của Thánh Gióng.
Hy vọng bài viết trên của Luật Minh Khuê đã cung cấp cho quý bạn đọc những kiến thức hữu ích. Trân trọng cảm ơn.