1. Phân tích khái niệm khoa học pháp lý ?

Pháp luật chính là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền trong xã hội để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo ra trật tự và ổn định trong xã hội. Pháp luật là một thực thể quan trọng trong xã hội, được nhiều ngành khoa học tiếp cận, nghiên cứu tùy theo yêu cầu, chức năng, nhiệm vụ đặc thù của từng ngành. Khoa học pháp lí tiếp cận pháp luật với tư cách là khách thể nghiên cứu nhằm xác lập hệ thống cơ sở lí luận, phương pháp luận về pháp luật và về thực tiễn việc xây dựng, áp dụng pháp luật trong đời sống xã hội. Là một ngành khoa học, khoa học pháp lí có đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu riêng. Khoa học pháp lí nghiên cứu nội dung, bản chất của các chế định pháp luật, các khái niệm, các quy luật và thuộc tính quy luật của những hiện tượng pháp luật trong đời sống xã hội. Bên cạnh việc nghiên cứu các chế định, các hiện tượng pháp luật hiện hành, khoa học pháp lí còn nghiên cứu cả những chế định và hiện tượng pháp lí trong lịch sử. Đồng thời, cùng với xây dựng, hoàn thiện bộ máy, khái niệm luật học, khoa học pháp lí còn đi sâu nghiên cứu thực tiên quản lí và hoạt động xây dựng, áp dụng pháp luật trong đời sống xã hội. Khoa học pháp lí có điểm gần với luật học ở chỗ đều là hệ thống tri thức về pháp luật. Tuy nhiên, điểm khác giữa khoa học pháp lí với luật học là ở chỗ: khoa học pháp ií năng về tính ứng dụng để xây dựng pháp luật, thực hiện và áp dụng pháp luật nói chung và từng hoạt động nói riêng. Ví dụ: khoa học pháp lí chú trọng nghiên cứu nhằm tối ưu hóa kĩ thuật lập pháp, lập quy, kĩ thuật điều tra, thẩm vấn...

Việc hình thành nên một khoa học bên cạnh xác định cho khoa học đó một đối tượng nghiên cứu riêng, còn phải có phương pháp nghiên cứu riêng. Giống như các bộ môn khoa học xã hội khác, khoa học pháp lí sử dụng hai loại phương pháp, P pháp luận của khoa học pháp lí là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Theo đó, t. quá trình nghiên cứu, khoa học pháp li phải n Hươn triệt các nguyên tắc về tính khách quan te, diện, tính lịch sử cụ thể... Ngoài những phương pháp chung, khoa học pháp lí còn sử dụng những phượn pháp riêng. Đó là các phương pháp trừu tượng lmn phương pháp phân tích và tổng hợp, phương ¬ lôgic - lịch sử, phương pháp quy nạp và diễn " phương pháp so sánh, phương pháp điều Ứg thực tiên, xã hội học pháp luật... Là một bộ phận của khoa học xã hội, khoa học pháp lí có quan hệ mật thiết với nhiều ngành khoa học khác. Các bộ phận cấu thành của khoa đeo pháp lí chính là các khoa học pháp lí chuyên ngành như khoa học Luật hình sự, khoa học Luật dân SỰ, khoa học Luật hành chính... và các khoa học iẾn! chuyên biệt như khoa học điều tra hình sự...

Sự ra đời và phát triển của khoa học pháp li là một yêu cầu tất yếu trong xã hội có giai cấp. Ngày nay, trước yêu cầu phát huy vai trò và tăng cường hiệu lực của pháp luật trong quản lí các lĩnh vực của đời sống xã hội, khoa học pháp lí ngày càng đóng vai trò quan trọng và là một lĩnh vực được quan tâm ưu tiên của mọi chính thể nhà nước ở các quốc gia.

1.1. Khoa học  pháp lý ở Nam Việt Nam

Ở Việt Nam, khoa học pháp lí ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần đảm bảo tính đúng đắn của hệ thống pháp luật, tạo cơ sở lí luận và phương pháp luận cho việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh cũng như cho việc áp dụng thống nhất pháp luật theo đúng nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực đối với việc xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Ở Việt Nam, hệ thống khoa học pháp lý bao gồm các nhóm cơ bản sau:

– Nhóm khoa học lý luận và lịch sử gồm: Lý luận nhà nước và pháp luật; Lịch sử nhà nước và pháp luật; Lịch sử tư tưởng về nhà nước và pháp luật…

– Nhóm khoa học pháp lý chuyên ngành gồm: Khoa học luật Hiến pháp; Khoa học luật hành chính; Khoa học luật hình sự…

– Nhóm khoa học luật quốc tế gồm: Công pháp quốc tế; Tư pháp quốc tế

– Nhóm khoa học pháp lý ứng dụng và thực nghiệm gồm: Khoa học điều tra hình sự; Tội phạm học; Kỹ thuật xây dựng pháp luật..

Lý luận nhà nước và pháp luật là một khoa học pháp lý độc lập trong hệ thống khoa học pháp lý. Nhưng nó có quan hệ mật thiết với các khoa học pháp lý khác và là khoa học pháp lý cơ sở đối với các khoa học pháp lý khác.

1.2. Phương pháp nghiên cứu

Khi tìm hiểu phương pháp nghiên cứu của khoa học trước hết phải tìm hiểu phương pháp luận của khoa học. Đó là những nguyên tắc, quan điểm có tính chất đường lối, xuyên suốt và chỉ đạo quá trình nghiên cứu.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp

Phân tích là phương pháp nhận thức về sự vật, hiện tượng bằng cách chia sự vật, hiện tượng (mang tính toàn thể hay tổng thể) thành những phần, những bộ phận, những chiều cạnh giản đơn hơn để nghiên cứu. Ví dụ, khi nghiên cứu về mô hình tổng thể bộ máy nhà nước Việt Nam, người làm nghiên cứu khoa học pháp lý thường chia nhỏ ra để nghiên cứu riêng về 4 bộ phận cơ bản:
- cơ quan lập pháp, 
- cơ quan hành pháp,
- cơ quan tư pháp,
-  bộ máy chính quyền địa phương.
Qua việc phân tích, làm rõ từng phần, từng bộ phận, tổng hợp lại kết quả, xâu chuỗi, xâu nối lại, ta có bức tranh tổng thể về bộ máy nhà nước. Phương pháp phân tích trong nghiên cứu khoa học chính là việc ứng dụng lối tư duy, chia việc khó thành nhiều việc dễ để thực hiện.
Tổng hợp là quá trình ngược lại của hoạt động phân tích. Tuy nhiên, về bản chất, tổng hợp là bước kế tiếp của phương pháp phân tích. Sau khi đã có tri thức riêng lẻ về từng mảnh, từng bộ phận, sự xâu nối, kết hợp các tri thức riêng lẻ thành kiến thức tổng thể chính là phương pháp tổng hợp trong nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên cứu khoa học pháp lý nói riêng.
Chính vì vậy, có thể nói, phân tích và tổng hợp là hai phương pháp gắn bó chặt chẽ quy định và bổ sung cho nhau trong hoạt động nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên cứu khoa học pháp lý nói riêng.
2. Phương pháp mô hình hóa
Phương pháp mô hình hóa là một phương pháp khoa học để nghiên cứu các đối tượng, các quá trình … bằng cách xây dựng các mô hình của chúng (các mô hình này bảo toàn các tính chất cơ bản được trích ra của đối tượng đang nghiên cứu) và dựa trên mô hình đó để nghiên cứu trở lại đối tượng thực.
Cơ sở logic của phương pháp mô hình hóa là phép loại suy. Phương pháp mô hình hóa cho phép tiến hành nghiên cứu trên những mô hình (vật chất hay ý niệm (tư duy)) do người nghiên cứu tạo ra (lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn đối tượng thực) để thay thế việc nghiên cứu đối tượng thực. Điều này thường xảy ra khi người nghiên cứu không thể hoặc rất khó nghiên cứu đối tượng thực trong điều kiện thực tế.
Phương pháp mô hình hóa xem xét đối tượng nghiên cứu như một hệ thống (tổng thể), song tách ra từ hệ thống (đối tượng) các mối quan hệ, liên hệ có tính quy luật có trong thực tế nghiên cứu, phản ánh được các mối quan hệ, liên hệ đó của các yếu tố cấu thành hệ thống – đó là sự trừu tượng hóa hệ thống thực.
Dùng phương pháp mô hình hóa giúp người nghiên cứu dự báo, dự đoán, đánh giá các tác động của các biện pháp điều khiển, quản lý hệ thống.Ví dụ: sử dụng phương pháp phân tích cấu trúc (đặc biệt là cấu trúc không gian, các bộ phận hợp thành có bản chất vật lý giống hệt đối tượng gốc) để phản ánh, suy ra cấu trúc của đối tượng gốc như: mô hình động cơ đốt trong, mô hình tế bào, sa bàn….
3. Phương pháp điều tra, khảo sát xã hội học
Trong thực tiễn nghiên cứu khoa học pháp lý hiện nay, đánh giá thực tiễn vận hành của pháp luật trong đời sống là chủ đề rất quan trọng. Công việc này có thể thực hiện bằng việc tham vấn ý kiến chuyên gia, những người đã nhiều năm theo dõi, quan sát về lĩnh vực mà người được giao nhiệm vụ nghiên cứu tìm hiểu. Tuy nhiên, kể cả việc tham vấn ý kiến chuyên gia như vậy cũng khó thu được thông tin đầy đủ và toàn diện. Chính vì thế, phương pháp điều tra, khảo sát xã hội học rất được coi trọng.
Việc điều tra, khảo sát xã hội học đòi hỏi rất nhiều yêu cầu, kỹ thuật để thực hiện. Điều trước tiên là phải xác định được phạm vi, nội dung, đối tượng điều tra, khảo sát. Đây chính là những người có được thông tin mà người nghiên cứu đang cần được tiếp cận. Chẳng hạn, nếu chúng ta được giao nhiệm vụ đánh giá thực tiễn thi hành Luật an toàn thực phẩm năm 2010 bằng việc điều tra, khảo sát thực tiễn, khi xác định đối tượng điều tra, khảo sát phải bao gồm các nhóm đối tượng cơ bản sau đây:
– Cán bộ trực tiếp tổ chức thực thi Luật: cán bộ các cơ quan y tế, nông nghiệp và phát triển nông thôn, công thương ở các cấp.
– Doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh trực tiếp phải chấp hành Luật an toàn thực phẩm: ví dụ cơ sở thức ăn đường phố, nhà hàng v.v.
– Người dân với tư cách là người tiêu dùng thực phẩm.
Việc chọn địa bàn điều tra, khảo sát cũng rất quan trọng. Yêu cầu chính khi chọn địa bàn điều tra, khảo sát là phải xem địa bàn ấy có đối tượng được điều tra, khảo sát có nhiều thông tin cần thu thập hay không. Thêm vào đó, phải làm sao địa bàn được chọn mang tính đại diện cho cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, có đại diện của đô thị, nông thôn và miền núi (thậm chí là vùng biển, hải đảo). Ví dụ: khi điều tra, khảo sát về thực tiễn thi hành Luật an toàn thực phẩm, số tỉnh, thành phố được chọn làm địa bàn điều tra thường là 9 tỉnh để bảo đảm tính đại diện.
Việc xác định số lượng đối tượng được điều tra, khảo sát là rất cần thiết. Trước một thực tiễn, do đối tượng được điều tra, khảo sát có nhận thức khác nhau nên nếu số lượng đối tượng điều tra, khảo sát quá ít, kết quả điều tra, khảo sát sẽ khó bảo đảm được tính đại diện. Trong thực tiễn làm việc tại Viện Khoa học pháp lý, số lượng đối tượng được điều tra, khảo sát sẽ tùy theo yêu cầu, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể. Tuy nhiên, với các cuộc điều tra, khảo sát có quy mô toàn quốc, số đối tượng được điều tra, khảo sát thường xoay quanh mức từ 3 tới 5 ngàn đối tượng.
Để thu thập được thông tin từ quá trình điều tra, khảo sát xã hội học, người làm công tác điều tra, khảo sát thường sử dụng 3 cách thức sau:
– Phỏng vấn đối tượng điều tra, khảo sát thông qua phiếu hỏi (phiếu thông thường hoặc phiếu phỏng vấn sâu).
– Tiến hành tọa đàm, trao đổi với các đối tượng được khảo sát.
– Thu thập số liệu thống kê, dữ liệu chính thống từ các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức có dữ liệu, số liệu.
4. Phương pháp luật học so sánh
Sử dụng phương pháp so sánh để tìm ra điểm giống và khác của pháp luật giữa các quốc gia khác nhau chưa đủ để trở thành phương pháp luật học so sánh mặc dù phương pháp luật học so sánh thường sử dụng kỹ thuật so sánh, đối chiếu này.
Phương pháp luật học so sánh đòi hỏi nghiên cứu, giải thích sự phát sinh, phát triển, biến đổi của các quy phạm pháp luật, các chế định pháp luật, các thiết chế pháp luật trong bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, lịch sử của quốc gia được chọn lựa để so sánh, từ đó hiểu rõ giá trị, vai trò, ý nghĩa của các quy phạm, chế định hoặc thiết chế đó. Trên cơ sở hiểu biết sâu sắc ấy, việc so sánh và phát hiện điểm giống và khác, cùng với sự giải thích căn nguyên của những sự giống và khác đó mới có ý nghĩa.
Ngoài ra, phương pháp luật học so sánh còn quan tâm tới hiện tượng tiếp nhận, lan tỏa, khuếch tán pháp luật nước ngoài (legal diffusion) hoặc cấy ghép pháp luật, khi các quốc gia có sự học hỏi, tham khảo lẫn nhau để hoàn thiện pháp luật của quốc gia mình.

2. Khoa học hình sự là gì ?

Khoa học luật hình sự là bộ phận của khoa học pháp lí, nghiên cứu những vấn đề lí luận của ngành luật hình sự. Những vấn đề này có thể được nghiên cứu ở những cấp độ và hình thức khác nhau. Trong chương trình đào tạo cử nhân luật, việc học tập, nghiên cứu ngành khoa học này nhằm trang bị những vấn đề lí luận cơ bản, giúp sinh viên có thể hiểu, giải thích, đánh giá được các quy định của luật hình sự và có thể vận dụng luật để giải quyết các vụ án hình sự.

2.1. Nhóm vấn đề khoa học luật hình sự cần giải quyết 

Những nhóm vấn đề cốt lõi mà khoa học luật hình sự cần giải quyết bao gồm:

- Nhóm vấn đề chung về ngành luật hình sự: Khái niệm, chức năng, nguyên tắc và nguồn của ngành luật.

- Nhóm vấn đề về tội phạm: Bản chất, đặc điểm, cấu trúc của hiện tượng tội phạm; vấn đề phản ánh (quy định) tội phạm trong luật.

- Nhóm vấn đề về hình phạt: Khái niệm, mục đích của hình phạt, vấn đề hệ thống hình phạt, nội dung và ý nghĩa của từng loại hình phạt, vấn đề quyết định hình phạt.

- Nhóm vấn đề về khoa học về áp dụng luật hình sự: vấn đề định tội và vấn đề quyết định hình phạt.

Ngoài ra, khoa học luật hình sự còn nghiên cứu một số vấn đề khác như vấn đề lịch sử (trên phạm vi quốc tế hoặc quốc gia) của ngành luật hình sự, vấn đề so sánh luật hình sự (so sánh giữa các quốc gia hoặc theo lịch sử của một quốc gia).

2.2. Khoa học luật hình sự có liên quan đến khao học khác như thế nào?

Khoa học luật hình sự có liên quan gần với một số ngành khoa học khác như:

- Tội phạm học (nghiên cứu tội phạm dưới góc độ tình hình, nguyên nhân và biện pháp phòng ngừa);

- Tâm thần học tư pháp (nghiên cứu các bệnh tâm thần liên quan đến vấn đề năng lực nhận thức, năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội, của con người);

- Khoa học luật tố tụng hình sự (nghiên cứu trình tự và thủ tục pháp lí của quá trình truy cứu TNHS người phạm tội);

- Khoa học điều tra tội phạm (nghiên cứu các phương pháp, kĩ thuật phục vụ việc điều tra tội phạm).

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến luật hình sự, Hãy gọi ngay: 1900.6162, để được luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty luật Minh Khuê