Mục lục bài viết
1. Liên hiệp hợp tác xã là gì ?
Trong nền kinh tế nhiều thành phần được vận hành theo cơ chế thị trường, với định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước quy định nhiều cơ chế, tạo lập nhiều mô hình tổ chức kinh tế thích hợp với khả năng, năng lực, tiềm năng, nguồn vốn, trình độ, kinh nghiệm... của các nhà đầu tư, của người lao động, của các pháp nhân. Điều đó tạo ra điều kiện thuận lợi cho họ phát huy đến mức tối đa năng lực và khả năng của họ, làm cho các tổ chức kinh tế đó phát triển bền vững và ngày càng lớn mạnh, đem lại nhiều lợi ích cho tập thể và cộng đồng xã hội. Các quy định về liên hiệp hợp tác xã trong Luật Hợp tác xã năm 2012 và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành đã thể hiện ý tường trên của Nhà nước Việt Nam.
Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất bốn hợp tác xã tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu chung của các hợp tác xã thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ ttong quản lý liên hiệp hợp tác xã. Việc pháp luật quy định ít nhất bốn hợp tác xã mới được thành lập một liên hiệp hợp tác xã và vốn góp của hợp tác xã thành viên được thực hiện theo thỏa thuận và theo quy định của điều lệ liên hiệp hợp tác xã, nhưng không quá 30% vốn điều lệ của liên hiệp hợp tác xã. Quy định này là nhằm bảo đảm cho liên hiệp hợp tác xã vẫn có đủ nguồn vốn để tiếp tục sản xuất, kinh doanh bình thường, nếu như có một hợp tác xã xin ra khỏi liên hiệp hợp tác xã và mang theo không quá 30% vốn điều lệ của liên hiệp hợp tác xã.
Hợp tạc xã muốn trở thành thành viên của liên hiệp hợp tác xã phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện như sau:
1) Có nhu cầu hợp tác với các hợp tác xã thành viên và có nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ của liên hiệp hợp tác xã;
2) Có đơn tự nguyện gia nhập và tán thành điều lệ của liên hiệp hợp tác xã;
3) Góp vốn theo quy định tại Luật Hợp tác xã và điều lệ liên hiệp hợp tác xã;
4) Các điều kiện khác theo quy định của điều lệ liên hiệp hợp tác xã.
Một hợp tác xã có thể là thành viên của nhiều liên hiệp hợp tác xã, trừ trường hợp điều lệ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có quy định khác.
Tất cả các quy định về thành lập, đăng ký kinh doanh, tổ chức bộ máy quản lý điều hành, chế độ pháp lý về thành viên, tổ chức lại, giải thể, phá sản... được quy định đối với hợp tác xã thì đều được áp dụng đối với liên hiệp hợp tác xã.
Liên hiệp hợp tác xã có tư cách pháp nhân. Tùy theo nhu cầu, lợi ích của các hợp tác xã và đặc điểm tình hình của địa phương, có thể thành lập liên hiệp hợp tác xã mà thành viên là các hợp tác xã cùng ngành nghề hoặc khác ngành nghề.
Trước kia theo Luật hợp tác xã năm 2003 (hiện nay là luật hợp tác xã năm 2012), Liên hiệp hợp tác xã thành lập Hội đồng quản trị và Ban giám đốc. Người đứng đầu Hội đồng quản trị là Chủ tịch Hội đồng quản trị, người đứng đầu Ban giám đốc là Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
Liên hiệp hợp tác xã được tự chọn tên và biểu tượng của mình phù hợp với quy định của pháp luật. Con dấu, bảng hiệu, giấy tờ giao dịch của liên hiệp hợp tác xã phải có ký hiệu "LHHTX".
Mục đích hoạt động, cơ cấu tổ chức của liên hiệp, quyền và nghĩa vụ của các hợp tác xã thành viên được quy định trong điều lệ hoạt động của liên hiệp hợp tác xã do đại hội các thành viên thông qua. Liên hiệp hợp tác xã tiến hành đăng kí kinh doanh tại cơ quan đăng kí kinh doanh cấp tỉnh nơi liên hiệp dự định đặt trụ sở chính.
2. Ban kiểm soát của hợp tác xã là gì ?
Nội dung khái niệm về ban kiểm soát của hợp tác xã:
Số lượng thành viên ban kiểm soát do điểu lệ hợp tác xã quy định. Đối với hợp tác xã có ít xã viên có thể chỉ bầu một kiểm soát viên để thực hiện chức năng của ban kiểm soát. Thành viên ban kiểm soát phải là xã viên hợp tác xã, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn và không được đồng thời là thành viên ban quản trị, kế toán trưởng, thủ quỹ của hợp tác xã và không phải là cha, mẹ, vợ, chồng, con hoặc anh, chị, em ruột của họ.
Nhiệm vụ của ban kiểm soát là kiểm tra việc chấp hành điều lệ, nội quy hợp tác xã và nghị quyết của đại hội xã viên; giám sát hoạt động của ban quản trị, chủ nhiệm hợp tác xã và các xã viên theo đúng pháp luật và điều lệ hợp tác xã; kiểm tra về tài chính, kế toán, phân phối thu nhập, xử lí các khoản lỗ, sử dụng các quỹ của hợp tác xã; tyếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo có liên quan đến công việc của hợp tác xã.
3. Hợp tác xã tín dụng là gì ?
Nội dung khái niệm về hợp tác xã tín dụng được hiểu:
Ở Việt Nam, các hợp tác xã tín dụng được thành lập ở miền Bắc từ ngày khôi phục kinh tế sau khi kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi (1954 - 4957) và ở miền Nam từ sau ngày giải phóng năm 1975. Đến cuối năm 1990 cả nước có gần 8.000 hợp tác xã tín dụng. Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, các hợp tác và tín dụng hoạt động theo cơ chế cũ không còn phù hợp nữa, hàng loạt các hợp tác xã tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng chỉ trả, đổ vỡ dây chuyển. Trước tình hình đó, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về các loại hình tổ chức kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân hàng dưới hình thức tổ chức tín dụng hợp tác và hoạt động theo nguyên tắc chung là tự nguyện góp vốn của tổ chức, cá nhân, tự chú, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động, mục tiêu chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên. Hợp tác xã tín dụng có các đặc điểm chủ yếu là: là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, tự chủ và hoạt động mang tính xã hội cao; vốn do thành viên đóng góp và thuộc sở hữu tập thể; mục tiêu hoạt động chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên; kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng; tổ chức và hoạt động vừa thuộc phạm vi áp dụng Luật hợp tác xã vừa thuộc phạm vỉ áp dụng Luật ngân hàng; thành viên tham gia quản lí hợp tác xã tín dụng theo nguyên tắc dân chủ và bình đẳng.
4. Phân tích những quy định của pháp luật về hợp tác xã ?
Luật sư phân tích :
Văn bản áp dụng:Luật hợp tác xã 2012 và Nghị định 193/2013/NĐ-CP hướng dẫn luật hợp tác xã
1. Quy định về hợp tác xã
- Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã.
- Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 04 hợp tác xã tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu chung của hợp tác xã thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý liên hiệp hợp tác xã.
- Khi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phát triển đến trình độ cao hơn thì sẽ hình thành các doanh nghiệp của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; doanh nghiệp của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
- Thành viên, hợp tác xã thành viên có quyền bình đẳng, biểu quyết ngang nhau không phụ thuộc vốn góp trong việc quyết định tổ chức, quản lý và hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối thu nhập và những nội dung khác theo quy định của điều lệ.
Như vậy, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế hay loại hình doanh nghiệp đặc biệt: có tư cách pháp nhân, thành lập để kinh doanh ngành nghề, lĩnh vực pháp luật không cấm, có điều lệ, trụ sở hoạt động rõ ràng. Hợp tác xã hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật. Yếu tố đặc biệt của loại hình doanh nghiệp vì được thành lập bởi một nhóm ít nhất 7 thành viên trở lên, với số lượng thành viên không hạn chế, việc gia nhập hay rút khỏi tổ chức này là tự nguyện, tự do theo điều lệ hợp tác xã, các thành viên không phân biệt vốn góp trong quyết định hoạt động của hợp tác xã. Ngoài ra mục tiêu chủ yếu là cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, việc làm cho thành viên góp vốn. Thành viên hợp tác xã có thể là lao động và hưởng lương trực tiếp từ hoạt động kinh doanh của hợp tác xã
2. Quyền, nghĩa vụ của hợp tác xã
- Tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm theo ngành, nghề đã đăng ký nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, hợp tác xã thành viên.
- Cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, việc làm cho thành viên, hợp tác xã thành viên và ra thị trường nhưng phải bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ đối với thành viên, hợp tác xã thành viên.
- Kết nạp mới, chấm dứt tư cách thành viên, hợp tác xã thành viên.
- Tăng, giảm vốn điều lệ trong quá trình hoạt động; huy động vốn và hoạt động tín dụng nội bộ theo quy định của pháp luật.
- Liên doanh, liên kết, hợp tác với tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài để thực hiện mục tiêu hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
- Góp vốn, mua cổ phần, thành lập doanh nghiệp nhằm mục tiêu hỗ trợ hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
- Quản lý, sử dụng, xử lý vốn, tài sản và các quỹ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
- Thực hiện việc phân phối thu nhập, xử lý các khoản lỗ, khoản nợ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
- Ký kết và thực hiện hợp đồng lao động, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các chính sách khác cho người lao động theo quy định của pháp luật.
- Giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, cung cấp thông tin cho thành viên, hợp tác xã thành viên.
- Thực hiện chế độ báo cáo về tình hình hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định của Chính phủ.
- Bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho thành viên, hợp tác xã thành viên theo quy định của pháp luật
3. Quyền, nghĩa vụ của thành viên hợp tác xã, liên hợp tác xã
- Góp vốn và chịu trách nhiệm về các khoản nợ, nghĩa vụ tài chính của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong phạm vi vốn góp vào hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
- Được cung ứng và sử dụng sản phẩm, dịch vụ theo hợp đồng dịch vụ,
- Được phân phối thu nhập theo quy định, được hưởng các phúc lợi của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
- Tham dự hoặc bầu đại biểu tham dự đại hội thành viên, hợp tác xã thành viên, biểu quyết các nội dung thuộc quyền của đại hội thành viên
- Ứng cử, đề cử thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên và các chức danh khác được bầu của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
- Kiến nghị, yêu cầu hội đồng quản trị, giám đốc (tổng giám đốc), ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên giải trình về hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; yêu cầu hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên triệu tập đại hội thành viên bất thường theo quy định của Luật này và điều lệ.
- Được cung cấp thông tin cần thiết liên quan đến hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; được hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ nghiệp vụ phục vụ hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
- Được trả lại vốn góp khi ra khỏi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định của Luật này và điều lệ.
4. Thủ tục đăng ký kinh doanh
- Điều kiện cấp giấy chứng nhận đăng ký khi có đủ các sau đây:
+ Ngành, nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm;
+ Hồ sơ đăng ký theo quy định ;
+ Tên của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được đặt theo quy định ;
+ Có trụ sở chính theo quy định .
- Cơ quan đăng ký:
+ Chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh của liên hiệp hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân đăng ký tại Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư nơi liên hiệp hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân đặt chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh.
+ Chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh của hợp tác xã đăng ký tại Phòng Tài chính - Kế hoạch thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi hợp tác xã đặt chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh.
- Hồ sơ đăng ký thành lập hợp tác xã, gồm:
+ Giấy đề nghị đăng ký thành lập hợp tác xã theo mẫu quy định ;
+ Điều lệ của hợp tác xã được xây dựng theo Điều 21 Luật Hợp tác xã;
+ Phương án sản xuất kinh doanh theo mẫu quy định ;
+ Danh sách thành viên theo mẫu quy định ;
+ Danh sách hội đồng quản trị, giám đốc (tổng giám đốc), ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên theo mẫu quy định;
+ Nghị quyết của hội nghị thành lập về những nội dung quy định tại Khoản 3 Điều 20 Luật Hợp tác xã đã được biểu quyết thông qua.
- Nếu hợp tác xã đáp ứng đủ điều kiện thì cơ quan đăng ký hợp tác xã cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã cho hợp tác xã trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ.
- Trường hợp không cấp giấy chứng nhận đăng ký thì cơ quan đăng ký hợp tác xã thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho hợp tác xã biết.
Chậm nhất vào ngày 15 tháng 01 hàng năm, hợp tác xã báo cáo trung thực, đầy đủ, chính xác bằng văn bản tình hình hoạt động của hợp tác xã của năm trước đó với cơ quan đăng ký hợp tác xã
5. Thành viên hội đồng quản trị hợp tác xã phải đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
- Là thành viên hợp xác xã;
- Không đồng thời là thành viên ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên, kế toán trưởng, thủ quỹ của cùng hợp tác xã và không phải là cha, mẹ đẻ; cha, mẹ nuôi; vợ, chồng; con, con nuôi; anh, chị, em ruột của thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, kiểm soát viên;
6. Kiểm soát viên, thành viên ban kiểm soát hợp tác xã phải đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
- Là thành viên hợp tác xã;
- Không đồng thời là thành viên hội đồng quản trị, giám đốc (tổng giám đốc), kế toán trưởng, thủ quỹ của cùng hợp tác xã và không phải là cha, mẹ đẻ; cha, mẹ nuôi; vợ, chồng; con, con nuôi; anh, chị, em ruột của thành viên hội đồng quản trị, thành viên khác của ban kiểm soát;
- Điều kiện khác do điều lệ hợp tác xã quy định.
- Giám đốc (tổng giám đốc) phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật và điều lệ.
7. Những người sau đây không được là thành viên hội đồng quản trị, thành viên ban kiểm soát, kiểm soát viên hoặc giám đốc (tổng giám đốc) hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã:
- Đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị Tòa án cấm hành nghề kinh doanh;
- Đã bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm sở hữu, các tội phạm về quản lý kinh tế mà chưa được xóa án tích;
- Trường hợp khác theo quy định của pháp luật và điều lệ.
Quý khách có thể dựa vào nội dung trên để trả lời cho câu hỏi của mình. Luật Minh Khuê xin trả lời một số câu hỏi có tính chất riêng biệt như sau:
Xin luật sư cho tôi hỏi? Công ty tôi đang muốn chuyển đổi loại hình từ Công ty TNHH hai thành viên trở lên thành mô hình Hợp tác xã có được không? Xin trân trọng cảm ở
Luật doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về việc chuyển đổi loại hình doanh nghiệp bao gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ phần; công ty cổ phần thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; công ty cổ phần thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; doanh nghiệp tư nhân thành công ty trách nhiệm hữu hạn. Theo đó, pháp luật không có quy định cho phép chuyển đổi từ loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn thành hợp tác xã. Do đó, không thể chuyển sang hình thức hợp tác xã.
Thay vào đó, bạn thực hiện các thủ tục chấm dứt hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn theo luật doanh nghiệp và đăng ký thành lập hợp tác xã theo luật hợp tác xã.
5. Sở hữu tập thể góc nhìn từ pháp luật về hợp tác xã ?
Trên cơ sở Hiến pháp, các đạo luật cụ thể hóa nguyên tắc này thông qua chế định hình thức sở hữu tập thể và loại hình hợp tác xã. Nhằm góp phần làm sáng tỏ khái niệm, ý nghĩa của sở hữu tập thể, bài viết sau đây xin trao đổi vài ý kiến về sở hữu tập thể thông qua pháp luật hiện hành về hợp tác xã.
Sở hữu tập thể trong luật thực định:
Trong khoa học pháp lý, sở hữu là khái niệm gắn liền với tài sản, chỉ xác lập trên tài sản – vật chất hoặc trí tuệ. Để có cơ chế thực hiện các quyền luật định, người ta thường quan tâm chủ sở hữu là một hay nhiều người khác nhau, từ đó có sự phân biệt giữa sở hữu một chủ với sở hữu nhiều chủ. Bộ luật dân sự nước ta có lẽ đã liệt kê các hình thức sở hữu theo hướng tiếp cận này, ngoài căn cứ vào chế độ sở hữu mà Hiến pháp đã ghi nhận. Sở hữu một chủ gồm có sở hữu tư nhân, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức xã hội…; sở hữu nhiều chủ gọi là sở hữu chung. Theo như tên gọi, có thể hình dung chủ sở hữu tập thể đối với tài sản không phải một cá nhân; tuy nhiên, không loại trừ tài sản ấy được sở hữu bởi duy nhất một thực thể pháp lý được tạo lập bởi nhiều người. Cho nên vấn đề trước hết cần làm rõ là: sở hữu tập thể là sở hữu nhiều chủ hay một chủ?
Nhìn từ góc độ của luật dân sự, sở hữu tập thể được hiểu là hình thức sở hữu mà chủ sở hữu là một tổ chức kinh tế (hợp tác xã hoặc một hình thức kinh tế tập thể ổn định khác) được dựng nên bởi một tập hợp cá thể hoặc hộ có nhu cầu chung hoặc có những khó khăn giống nhau trong cuộc sống, nghề nghiệp; tự nguyện hợp tác, tương trợ để cùng nhau giải quyết thông qua chung sức, chung vốn làm kinh tế [1]. Vì có chủ là tổ chức nên không thể nhầm lẫn giữa sở hữu tập thể với sở hữu tư nhân mà chủ là một cá nhân. Sở hữu tập thể cũng khác hẳn với các hình thức sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp… vì tài sản thuộc sở hữu tập thể phải được sử dụng cho hoạt động kinh tế, để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ.
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162
Câu hỏi đặt ra là: liệu còn có hình thức kinh tế tập thể nào khác chịu sự điều chỉnh bởi chế định này, mà tổ chức hoạt động lại không phải thông qua một thực thể pháp lý nhất định (cơ sở kinh tế)? Nói cách khác, có hay không trường hợp chủ sở hữu tập thể là nhóm người? Người viết cho rằng không có cơ sở để ghi nhận trường hợp này vì sẽ trùng lặp và chồng chéo với sở hữu chung. Hơn nữa, luật cũng đã quy định vấn đề chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu tập thể phải theo điều lệ của tập thể đó[2], một lần nữa khẳng định cơ chế thực hiện quyền sở hữu tập thể không như sở hữu chung. Từ quy định của luật hiện hành, có thể khái quát một số dấu hiệu đặc trưng để phân biệt sở hữu tập thể với sở hữu chung như sau:
- Chủ sở hữu tập thể thường chỉ giới hạn ở một số đối tượng nhất định (không có người nước ngoài), trong khi sở hữu chung thì không.
- Vấn đề sử dụng tài sản thuộc sở hữu tập thể phải gắn với các hoạt động kinh tế; còn sở hữu chung có thể tồn tại cả trong kinh tế lẫn dân sự.
- Mục đích khai thác tài sản thuộc sở hữu tập thể không chỉ đơn thuần vì lợi ích kinh tế, mà phải hướng đến giải quyết các nhu cầu chung, cải thiện và nâng cao đời sống cả vật chất lẫn tinh thần cho thành viên, thể hiện rõ tính cộng đồng, tương trợ lẫn nhau.
- Phương thức thực hiện quyền sở hữu tập thể luôn gắn liền với tổ chức và hoạt động của một thực thể pháp lý nhất định (chủ thể của quyền sở hữu tập thể), chứ không phải là cơ chế đồng thuận của nhiều chủ thể độc lập nhau như hình thức sở hữu chung.
Như vậy, quyền sở hữu tập thể được thực hiện bởi một chủ thể duy nhất là tổ chức kinh tế tập thể. Cơ chế thực hiện quyền do điều lệ (đối với chủ sở hữu pháp nhân) hoặc pháp luật quy định. Sở hữu tập thể là sở hữu một chủ.
Sở hữu tập thể nhìn từ Luật hợp tác xã 2003:
Xét ở góc độ chủ thể thực hiện quyền, sở hữu tập thể trong hợp tác xã cũng chính là sở hữu của pháp nhân kinh tế, tương tự như hình thức sở hữu trong công ty. Đáng tiếc là sở hữu pháp nhân kinh tế (bao gồm cả pháp nhân hoạt động thương mại) lại thiếu vắng cơ sở pháp lý khi Bộ luật dân sự không đề cập (!?). Quyền sở hữu trong hợp tác xã được thực hiện theo điều lệ hợp tác xã, trong khuôn khổ luật định. Thông thường, điều lệ phân giao các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản cho các cơ quan trong bộ máy quản lý thực hiện trên danh nghĩa hợp tác xã, từ Đại hội xã viên, Ban quản trị cho đến Chủ nhiệm.
Tài sản của hợp tác xã được tạo lập không chỉ từ vốn góp ban đầu của xã viên, vốn do hợp tác xã tự tích lũy, huy động, được tài trợ mà còn từ vốn trợ cấp của nhà nước, đặc biệt là trợ cấp không hoàn lại. Những tài sản có nguồn gốc trợ cấp không hoàn lại này tuy thuộc sở hữu tập thể, được sử dụng để phục vụ cộng đồng xã viên nhưng phải chuyển giao lại cho Nhà nước khi hợp tác xã giải thể[3].
Do bản chất của kinh tế tập thể, việc khai thác khối tài sản của hợp tác xã không chỉ vì mục tiêu tối đa hóa lợi tức vốn góp cho xã viên (như doanh nghiệp), mà sâu xa hơn là phải hình thành được các quỹ và tài sản nhằm giải quyết và đáp ứng tốt nhất những nhu cầu chung về kinh tế – xã hội mà xã viên quan tâm, chẳng hạn các dịch vụ tín dụng, tiết kiệm, chăm sóc sức khỏe, nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường, tổ chức lễ hội, giáo dục, nhà trẻ… Như vậy, thực trạng sử dụng quỹ và tài sản dành cho phúc lợi tập thể có thể xem như một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả cũng như sự thành công hay không của một mô hình hợp tác xã cụ thể. Những tài sản phúc lợi này không đương nhiên được phân chia cho xã viên khi hợp tác xã giải thể, mà được xử lý theo điều lệ và quy định của pháp luật; theo đó, phần nào có nguồn gốc trợ cấp nhà nước thì giao chính quyền địa phương, phần còn lại do Đại hội xã viên quyết định[4]. Đây cũng chính là khác biệt lớn trong thực hiện quyền sở hữu giữa hợp tác xã và công ty.
Một số vấn đề đặt ra:
Thứ nhất, sở hữu tập thể trong hợp tác xã vận tải theo mô hình dịch vụ hỗ trợ:
Ở nước ta, hợp tác xã đang giữ vị trí trọng yếu trong ngành giao thông vận tải ở nhiều địa phương, đặc biệt tại thành phố Hồ Chí Minh đã đảm nhận tới 77% nhu cầu vận tải hành khách và trên 80% nhu cầu vận tải hàng hoá đường bộ (Báo cáo của Bộ GTVT tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Liên minh HTX Việt Nam năm 2010)[5]. Hiện có 3 hình thức tổ chức hợp tác xã vận tải là: hình thức dịch vụ hỗ trợ, hình thức điều hành tập trung và hình thức hỗn hợp; trong đó mô hình dịch vụ hỗ trợ (chiếm tỷ trọng trên 82%) được nhận diện qua các dấu hiệu như: hợp tác xã không trực tiếp hành nghề mà chỉ cung cấp các dịch vụ hỗ trợ xã viên về thủ tục, giấy tờ (ở ngành khác không nhất thiết có cùng đặc điểm này); vốn điều lệ thấp; xã viên hành nghề với danh nghĩa hợp tác xã nhưng bằng phương tiện hoạt động là tài sản riêng của mình hoặc tự thuê mướn; có xác định tỷ lệ phân chia thu nhập giữa xã viên và hợp tác xã; quyết định điều hành thường ít có hiệu lực đối với xã viên; việc tuân thủ nội quy kỷ luật khá lỏng lẻo; hợp tác xã không quản lý được phương tiện, người lái, không quản lý được kinh doanh, không có bộ phận lo chung về kĩ thuật an toàn phương tiện … Từ mô hình này, đã nảy sinh một số bất cập sau:
- Hợp tác xã chỉ là tổ chức kinh tế về hình thức, có đăng ký kinh doanh nhưng không có nguồn lực để hoạt động như một pháp nhân thực sự. Có thể nói đây là hoạt động nghề nghiệp của xã viên, bằng “tư liệu sản xuất” của xã viên nhưng “núp bóng” pháp nhân hợp tác xã. Hợp tác xã không có điều kiện để thực hiện trách nhiệm tài sản khi xảy ra tổn thất do hoạt động hành nghề của xã viên (người lao động của hợp tác xã) gây ra. Rủi ro cho khách hàng là điều khó tránh khỏi! Cam kết của xã viên về việc tự chịu trách nhiệm (còn hợp tác xã hoàn toàn không) đã đi ngược lại nguyên tắc trách nhiệm của pháp nhân theo luật dân sự.
- Với năng lực tài chính khiêm tốn, lại không trực tiếp làm kinh tế, hợp tác xã không thể nào tạo lập được quỹ hay tài sản phục vụ lợi ích và các nhu cầu chung khác của cộng đồng xã viên. Ý nghĩa xã hội đặc trưng của sở hữu tập thể hầu như không phát huy thực sự. Vậy có nên duy trìhợp tác xã kiểu này?
Thứ hai, sở hữu tập thể trong tổ hợp tác:
Tổ hợp tác (hoạt động kinh tế) hiện được xem như một trong hai loại hình kinh tế tập thể chính thức được luật điều chỉnh, có quy chế pháp lý cụ thể. Tổ hợp tác hoạt động theo Bộ Luật dân sự (điều 111 đến điều 120), Nghị định 151/2007/NĐ-CP và Thông tư 04/2008/TT-BKH. Hiện nay, cùng với sự hiện diện của hơn 19.000 hợp tác xã trên phạm vi cả nước, có sự góp mặt của gần 370.000 tổ hợp tác kinh tế hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực nông, ngư nghiệp.
Tổ hợp tác có tài sản do các tổ viên đóng góp, cùng nhau tạo lập và được tặng cho chung. Không có quy định bắt buộc về vốn trợ cấp của Nhà nước cho tổ chức này như hợp tác xã. Tài sản do tổ viên góp vào có thể được hoàn trả khi tổ viên đó ra khỏi tổ hợp tác. Tổ viên quản lý và sử dụng tài sản của tổ hợp tác theo phương thức thoả thuận. Riêng việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất phải được các tổ viên đồng thuận theo nguyên tắc nhất trí.[6]
Pháp luật không công nhận tư cách pháp nhân cho tổ hợp tác, không yêu cầu điều lệ hoạt động; thay vào đó, tổ hợp tác có hợp đồng hợp tác là sợi dây liên kết pháp lý các tổ viên. Như vậy, tổ hợp tác có phải là “hình thức kinh tế tập thể ổn định” hay không? Nếu phải thì sở hữu của tổ hợp tác chính là sở hữu tập thể, ngược lại thì không. Nhưng thế nào là “ổn định”? Tính ổn định có phụ thuộc vào thời hạn của hợp đồng hợp tác, thời hạn bao lâu (?), có gắn với tư cách pháp nhân hay không? Câu trả lời vẫn chưa được tìm thấy trong các quy định pháp lý.
Suy cho cùng, hình thức sở hữu tập thể có thể tồn tại hoặc không tồn tại trong loại hình tổ hợp tác. Nếu sở hữu của tổ hợp tác là sở hữu tập thể, thì phương thức thực hiện quyền sở hữu vẫn rất khác với hợp tác xã (như đã nêu trên). Cùng là hình thức sở hữu tập thể, sao lại có sự khác nhau về tính chất chủ sở hữu và phương thức thực hiện quyền sở hữu?
Đề xuất:
Một là, sửa dổi Bộ luật dân sự theo hướng không xem sở hữu tập thể là một hình thức sở hữu:
Mặcdù kinh tế hợp tác xã khởi nguồn từ một nhà tư tưởng theo chủ nghĩa xã hội không tưởng – Robert Owen (1771-1858) – nhưng thực tiễn áp dụng thành công mô hình này ở rất nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, kể cả các nước tư bản phát triển như Mỹ, Nhật, Đức, Phần Lan, Thụy Sĩ…. đã khẳng định vị trí và vai trò tích cực của kinh tế tập thể đối với quá trình tăng trưởng kinh tế, góp phần nâng cao đời sống của đại đa số người dân lao động trong xã hội. Vậy, ở các quốc gia đó có chế định một hình thức sở hữu đặc thù nào cho các đơn vị kinh tế tập thể, tương tự như sở hữu tập thể ở nước ta không?
Người viết nghĩ rằng không nhất thiết và cũng không nên gắn mỗi loại hình kinh tế với một hình thức sở hữu nhất định. Trong văn bản luật, chỉ nên tiếp cận cáchình thức sở hữu từ góc độ chủ thể và phương thức thực hiện quyền, theo đó cần sửa đổi Bộ luật dân sự theo hướng chế định năm hình thức sở hữu sau: a/ Sở hữu cá nhân; b/ Sở hữu nhà nước; c/ Sở hữu pháp nhân; d/ Sở hữu của tổ chức có năng lực pháp lý hạn chế và e/ Sở hữu chung. Sở hữu pháp nhân và sở hữu của tổ chức khác đều có thể gắn với chủ thể hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, nghề nghiệp,… Những giới hạn trong sử dụng và định đoạt quyền đối với tài sản chung của “tập thể” chỉ nên xem như một trong những dấu hiệu đặc trưng gắn liền với loại hình kinh tế tập thể, chứ không nên xem là cơ sở để định danh một hình thức sở hữu riêng biệt.Suy cho cùng, mỗi loại tổ chức khác nhau ra đời và hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau (tôn giáo, chính trị… ) đều có quy chế riêng cho việc sử dụng và định đoạt tài sản gắn với mục đích hoạt động đặc trưng của mình.
“Chế độ sở hữu tập thể” đã tồn tại rất lâu trong đời sống cũng như trong khoa học chính trị pháp lý của nước ta, nhưng nếu xét ở khía cạnh được luật hóa thành hình thức sở hữu thì có vẻ còn khá mơ hồ. Những khác biệt, thậm chí bất đồng trong cách hiểu và vận dụng đã để lại không ít hệ lụy, mà sự thất bại của mô hình hợp tác xã kiểu cũ là một ví dụ điển hình. Tư duy làm chủ tập thể trong quá khứ đã từng là một trong những yếu tố khiến cho người dân bị tước bỏ nhiều quyền trên thực tế, cho dù họ có rất nhiều quyền theo Hiến pháp[7]. Phải chăng vì cứ gắn sở hữu tập thể vào kinh tế tập thể, nên dù cho nhà làm luật có khẳng định hợp tác xã không phải là doanh nghiệp (ban hành đạo luật riêng cho hợp tác xã), sở hữu của hợp tác xã là sở hữu tập thể nhưng không ít các chuyên gia, nhà quản lý vẫn cứ phát biểu “hợp tác xã là một loại hình doanh nghiệp” và “sở hữu tài sản trong hợp tác xã là sở hữu tư nhân”!?
Hai là, về mô hình hợp tác xã dịch vụ hỗ trợ:
Trong pháp luật Việt Nam, tư cách pháp nhân của tổ chức (đặc biệt là tổ chức kinh doanh) có ý nghĩa quan trọng hơn là việc chỉ ghi nhận tính hợp pháp của chủ thể trong các quan hệ pháp lý. Vốn chủ sở hữu và tài sản kinh doanh là phương tiện cần thiết để pháp nhân huy động thêm nguồn lực để phát triển, bảo đảm hiệu quả hoạt động, khẳng định được quyền tự chủ và năng lực trách nhiệm độc lập đối với các nghĩa vụ tài sản do mình tạo ra.
Hợp tác xã về bản chất là tổ chức kinh tế, cho dù hoạt động theo mô hình nào đi nữa thì cũng không thể có vai trò chỉ như một hội nghề nghiệp. Thực trạng không ít hợp tác xã dịch vụ vận tải khách theo tuyến cố định chỉ hoạt động trên danh nghĩa, xã viên lạm dụng tư cách pháp nhân của hợp tác xã đểhưởng lợi nhưng không chấp hành nội quy kỷ luật, quy tắc nghề nghiệp, gây tai nạn giao thông nghiêm trọng,… được đánh giá là điểm yếu tồn tại dai dẳng của hợp tác xã ngành giao thông vận tải. Chỉ có 32 trên 1.086 hợp tác xã vận tải (chiếm 2,9%) được chọn là mạnh (Tham luận của Bộ GTVT tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Liên minh HTX Việt Nam). Điều này cho thấy có sự bất hợp lý trong chính sách của Nhà nước về hợp tác xã; có cả sự lệch lạc, dễ dãi trong nhận thức và vận dụng luật pháp của người dân lẫn các cấp chính quyền.
Theo người viết, không nên duy trì mô hình hợp tác xã dịch vụ hỗ trợ (như kiểu dịch vụ hỗ trợ trong ngành vận tải hiện nay) vì rủi ro cho cộng đồng, thêm phức tạp cho công tác quản lý về an toàn giao thông trong khi không phát huy đầy đủ ý nghĩa xã hội tốt đẹp của kinh tế tập thể. Chỉ nên thừa nhận 2 mô hình: hợp tác xã quản lý tập trung và hợp tác xã hỗn hợp trong ngành vận tải, ở đó hợp tác xã có nguồn lực tài chính thực sự, có năng lực chuyên môn để hoạt động nghề nghiệp như đăng ký và quan trọng là hợp tác xã quản lý được việc hành nghề của xã viên dưới danh nghĩa của mình. Nhằm bảo đảm tính thống nhất trong nhận thức và thực thi pháp luật, thiết nghĩ cũng cần đưa ra những tiêu chí pháp lý cụ thể hơn để hướng dẫn các hình thức tổ chức hợp tác xã trong các ngành, lĩnh vực nói chung.
*****
Lịch sử hình thành và phát triển gần 200 năm qua của hợp tác xã và kinh tế tập thể (nói chung) trên thế giới đã khẳng định vai trò quan trọng của loại hình kinh tế này, đặc biệt là ở những cộng đồng nông thôn. Việt Nam với vị trí của một nước nông nghiệp thì việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về hợp tác xã trong đó có chế định hình thức sở hữu, để từ đó phát hiện và nhân rộng các mô hình hợp tác xã tiên tiến là công việc có ý nghĩa thiết thực đối với yêu cầu tăng trưởng kinh tế bền vững của quốc gia.
(MINH KHUE LAW FIRM: Biên tập.)