Xin chân thành cảm ơn Luật sư.
Người gửi : N. C. H
Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật hôn nhân gia đình của công ty Luật Minh Khuê.
Luật sư tư vấn hôn nhân gọi: 1900.6162
Trả lời :
Chào bạn! Cảm ơn bạn đã tin tưởng và lựa chọn công ty Luật Minh Khuê. Về thắc mắc của bạn, chúng tôi xin được giải đáp như sau:
Căn cứ pháp lý:
Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009
Nội dung phân tích:
Thứ nhất, em bạn đã đủ tuổi kết hôn chưa ?
Theo điều 8, Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định :
"Điều 8. Điều kiện kết hôn
1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a)Nam từ đủ20 tuổi trở lên, nữ từđủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.
2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.".
Như vậy, em bạn cũng như bạn trai chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định.
Thứ hai, 2 người có phạm tội gì không ?
Theo thông tin bạn trình bày thì em của bạn và bạn trai mới 16 tuổi, tức là 2 người vẫn là trẻ em theo Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.
Xét các tội phạm tình dục quy định trong Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009 thì không thể phạm tội cưỡng dâm theo điều 113 BLHS 2009 ( do 2 bé không có quan hệ lệ thuộc ); không phạm tội cưỡng dâm trẻ em theo điều 114, không phạm tội giao cấu với trẻ em theo điều 115, dâm ô với trẻ em theo điều 116 ( do 2 bé đều chưa thành niên ).
Như vậy, bé trai trong trường hợp này có thể xét đến tội Hiếp dâm theo điều 111 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung 2009 hoặc Hiếp dâm trẻ em theo điều 112 BLHS 2009 vì chủ thể tội hiếp dâm chỉ có thể là nam giới nên trong trường hợp này chỉ xét đến hành vi của bé trai. Trong trường hợp này bé gái 16 tuổi nên áp dụng tội Hiếp dâm trẻ em theo điều 112 là hợp lý hơn cả.
"Điều 112. Tội hiếp dâm trẻ em
1. Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:
a) Có tính chất loạn luân;
b) Làm nạn nhân có thai;
c) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Có tổ chức;
b) Nhiều người hiếp một người;
c) Phạm tội nhiều lần;
d) Đối với nhiều người;
đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61%trở lên;
e) Biết mình bị nhiễm HIVmà vẫn phạm tội;
g) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.".
Bé trai chỉ bị truy cứu về 2 tội này nếu có sự giao cấu trái ý muốn của bé gái. Trong trường hợp này bạn không cung cấp thông tin rõ nên chúng tôi chia làm 2 trường hợp như sau:
- Nếu bé trai dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác nhằm quan hệ trái ý muốn của bé gái thì bé trai sẽ phải chịu trách nhiệm về tội Hiếp dâm trẻ em. Tại khoản 2, điều 12 : “Người đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.". Tội hiếp dâm trẻ em là tội rất nghiêm trọng ( khoản 1, điều 112) và đặc biệt nghiêm trọng ( khoản 2, 3, 4, điều 12) cho nên bé trai phải chịu trách nhiệm về tội này.
- Nếu 2 bé quan hệ đồng thuận thì ở đây không cấu thành tội phạm.
Tuy nhiên, bạn cũng cần lưu ý trong trường hợp bé trai phạm tội thì cũng chỉ bị khởi tố hình sự trong trường hợp quy định tại điều 83 Bộ luật tố tụng hình sự, cụ thể :
"Điều 83. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự.
Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây:
1- Tố giác của công dân;
2- Tin báo của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội;
3- Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
4- Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan và cơ quan Kiểm lâm trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm;
5- Người phạm tội tự thú.".
Trên đây là thư tư vấn của chúng tôi.
Chúng tôi hy vọng rằng, ý kiến tư vấn của chúng tôi sẽ giúp làm sáng tỏ các vấn đề mà bạn đang quan tâm. Trên từng vấn đề cụ thể, nếu bạn cần tham khảo thêm ý kiến chuyên môn của chúng tôi, xin hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ email Tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình miễn phí qua Email hoặc qua Tổng đài tư vấn: 1900.6162.
Trân trọng./.
BỘ PHẬN TƯ VẤN LUẬT - CÔNG TY LUẬT MINH KHUÊ.