Mục lục bài viết
1. Một số khái niệm liên quan
- Thương tật vĩnh viễn là tình trạng tổn thương cơ thể hoặc tinh thần mà một người phải đối mặt vĩnh viễn do tai nạn, bệnh tật, hoặc các nguyên nhân khác dẫn đến mất khả năng lao động hoặc giảm khả năng lao động vĩnh viễn. Thương tật vĩnh viễn có thể là mất một phần hoặc toàn bộ khả năng lao động của người đó. Đây là một yếu tố quan trọng trong việc xác định mức độ bồi thường từ bảo hiểm.
- Bồi thường bảo hiểm là khoản tiền mà một công ty bảo hiểm cam kết trả cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm được quy định trong hợp đồng bảo hiểm. Khoản bồi thường này có thể được chi trả để bù đắp thiệt hại về tài sản, y tế, hoặc khắc phục các tổn thương về sức khỏe, bao gồm cả thương tật vĩnh viễn.
Cả hai khái niệm này đều quan trọng trong việc hiểu và quản lý rủi ro trong cuộc sống hàng ngày và là cơ sở cho việc mua bảo hiểm để bảo vệ cho bản thân và tài sản.
2. Điều kiện được bồi thường bảo hiểm khi bị thương tật vĩnh viễn
Theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 12 của Thông tư 67/2023/TT-BTC, người được bảo hiểm được xem là thương tật vĩnh viễn và không thể phục hồi khi bị thương tật ở các bộ phận cơ thể như sau: hai tay; hoặc hai chân; hoặc một tay và một chân; hoặc hai mắt; hoặc một tay và một mắt; hoặc một chân và một mắt. Để được chi trả bảo hiểm cho người bị thương tật vĩnh viễn, cần phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Vị trí bị thương tật vĩnh viễn, không thể phục hồi: Mất hoàn toàn, liệt hoàn toàn và không thể phục hồi được chức năng của tay tính từ cổ tay trở lên; Mất hoàn toàn, liệt hoàn toàn và không thể phục hồi được chức năng của chân tính từ mắt cá chân trở lên; Mất hoàn toàn và không thể phục hồi được chức năng của mắt được hiểu là mất hoàn toàn hoặc mù hoàn toàn.
- Được chứng nhận bị liệt hoàn toàn và không thể phục hồi: Chứng nhận người được bảo hiểm bị mất hoàn toàn bộ phận cơ thể (tay, chân hoặc mắt) có thể được thực hiện ngay sau khi sự kiện bảo hiểm xảy ra hoặc sau khi kết thúc việc điều trị. Chứng nhận bị liệt hoàn toàn và không thể phục hồi chức năng của các bộ phận cơ thể hoặc mù hoàn toàn hoặc bị tổn thương cơ thể từ 81% trở lên được thực hiện không sớm hơn 180 ngày kể từ ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm hoặc từ ngày bệnh lý được chẩn đoán.
Lưu ý: Ngoài các điều kiện đã nêu trên, phía doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài có thể bổ sung quy định về các trường hợp khác nhằm tăng cường quyền lợi thương tật toàn bộ vĩnh viễn cho người được bảo hiểm.
3. Mức bồi thường bảo hiểm
Theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật Dân sự 2015 về thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm:
- Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm: Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại; Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại; Thiệt hại khác do luật quy định.
- Người chịu trách nhiệm bồi thường phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Theo quy định tại Điều 7 của Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP về thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm chi phí khám bệnh, chữa bệnh, thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đến cơ sở khám chữa bệnh và trở về nơi ở; chi phí bồi dưỡng sức khỏe cho người bị thiệt hại; chi phí phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại được xác định căn cứ vào thu nhập trung bình của lao động cùng loại; chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.
Như vậy, việc bồi thường thiệt hại cho người bị thương tật vĩnh viễn sẽ được xác định dựa trên các khoản chi phí cần thiết cho việc cứu chữa, bồi dưỡng sức khỏe và thu nhập bị mất của người bị thương tật, cùng với chi phí chăm sóc người bị thương tật và một khoản tiền bồi thường tổn thất về tinh thần.
4. Trường hợp không được bồi thường bảo hiểm
Theo quy định tại Điều 40 của Luật Kinh doanh Bảo hiểm 2022, các trường hợp không phải bồi thường, trả tiền bảo hiểm được quy định như sau: Doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài không phải bồi thường, trả tiền bảo hiểm trong các trường hợp sau đây:
- Người được bảo hiểm chết do tự tử trong thời hạn 02 năm: Bởi vì tự tử được coi là một nguyên nhân không dự kiến và không thể dự đoán được. Trong giai đoạn đầu của hợp đồng bảo hiểm, người mua bảo hiểm có thể có ý định mua bảo hiểm với mục đích tự tử để gia đình nhận tiền bảo hiểm. Điều này không phản ánh mục đích chính đáng của bảo hiểm.
- Người được bảo hiểm chết do lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm hoặc người thụ hưởng: Trong trường hợp này, việc bảo hiểm không áp dụng do đóng phí bảo hiểm nhằm mục đích lợi ích cá nhân thông qua hành vi cố ý gây ra tổn thất cho bên mua bảo hiểm hoặc người thụ hưởng.
- Người được bảo hiểm bị thương tật vĩnh viễn do lỗi cố ý của chính bản thân, bên mua bảo hiểm hoặc người thụ hưởng: Trong trường hợp này, việc bảo hiểm không áp dụng vì tổn thất là kết quả của hành vi cố ý. Điều này có nghĩa là nếu người được bảo hiểm tự gây ra thương tật vĩnh viễn hoặc nếu bên mua bảo hiểm hoặc người thụ hưởng gây ra thương tật vĩnh viễn một cách cố ý, thì công ty bảo hiểm không có nghĩa vụ chi trả bồi thường.
- Người được bảo hiểm chết do bị thi hành án tử hình: Trong trường hợp này, không phải là nguyên nhân bất ngờ và không thể dự đoán được từ phía bảo hiểm. Việc này nhấn mạnh rằng bảo hiểm thường chỉ áp dụng cho các nguyên nhân tử vong không phải do hành vi phạm tội, và áp dụng cho các tình huống không thể dự đoán được từ trước như tai nạn hoặc bệnh tật.
- Trường hợp khác theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm: Cụ thể, trong hợp đồng bảo hiểm, có thể có các điều khoản riêng biệt quy định về những trường hợp cụ thể mà bảo hiểm không áp dụng. Điều này có thể bao gồm các trường hợp đặc biệt mà công ty bảo hiểm và người được bảo hiểm đã thỏa thuận từ trước và được ghi rõ trong điều khoản của hợp đồng.
Trong trường hợp có nhiều người thụ hưởng, nếu một hoặc một số người thụ hưởng cố ý gây ra cái chết hoặc thương tật vĩnh viễn cho người được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài vẫn phải bồi thường, trả tiền bảo hiểm cho những người thụ hưởng khác theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Như vậy, việc liệu người bị thương tật vĩnh viễn có được bồi thường bảo hiểm hay không phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, như đã quy định.
Ngoài ra, quý bạn đọc có thể tham khảo thêm bài viết Đánh người gây thương tích dưới 11% có bị phạt tù? Nếu có bất cứ vấn đề pháp lý nào cần hỗ trợ, vui lòng liên hệ tới bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua số điện thoại: 1900.6162 hoặc gửi yêu cầu trực tiếp tới địa chỉ email: lienhe@luatminhkhue.vn. Trân trọng!