1. Trách nhiệm hình sự là gì?
Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 không có quy định như thế nào là trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên trước đây thì Bộ Luật Hình sự 1999 ( bộ luật cũ) có quy định về trách nhiệm hình sự. Theo đó thì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lí bất lợi về hành vi phạm tội của mình. Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lí, bao gồm: nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích.
Nhìn chung thì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm mà bản thân người phạm tội họ phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về chính hành vi phạm tội của mình. Họ phải chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự( hình phạt, biện pháp tư pháp).
Chỉ người nào phạm một tội đã được quy định tại Bộ luật Hình sự thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Đối với pháp nhân thì chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định rất cụ thể tại điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 theo đó thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.
2. Người dân tộc thiểu số có được giảm nhẹ hình phạt tù hay không?
Căn cứ: Theo điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định vụ thể về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:
- Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
- Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
- Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
- Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
- Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
- Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
- Phạm tội do lạc hậu;
- Người phạm tội là phụ nữ có thai;
- Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
- Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
- Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
- Người phạm tội tự thú;
-Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
- Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
- Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
- Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
- Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Căn cứ Điểm 5 Mục I Công văn 212/TANDTC-PC năm 2019 và Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP thì các "tình tiết khác" bao gồm
- Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, bà mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước:
- Bị cáo có anh, chị, em ruột là liệt sỹ;
- Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên;
- Người bị hại cũng có lỗi;
- Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;
- Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;
- Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;
- Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu.
Nhìn chung thì trong từng những trường hợp cụ thể mà tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án. Tuy nhiên thì các tình tiết giảm nhẹ theo quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Như vậy thì người dân tộc thiểu số khi phạm tội thì chỉ cần có các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 cũng như là được tòa án xác nhận là có tình tiết giảm nhẹ khác thì sẽ được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Các tình tiết giảm nhẹ hay tăng nặng thì đều áp dụng cho tất cả công dân Việt Nam do đó không có sự phân biệt giữa các dân tộc trong một đất nước.
3. Các tình tiết giảm nhẹ với pháp nhân thương mại phạm tội.
Các tình tiết giảm nhẹ với pháp nhân thương mại phạm tội được quy định tại điều 84 Bộ luật Hình sự 2015 theo đó các tình tiết giảm nhẹ bao gồm:
- Đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm
- Tự nguyện sửa chữa, bồi thương thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lơn.
Cũng tương tự như cá nhân phạm tội thì pháp nhân phạm tội cũng thế. Cụ thể đó là khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Căn cứ theo các quy định trên, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự rất đa dạng và ảnh hưởng của chúng đối với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội là khác nhau. Do đó, mức độ ảnh hưởng của chúng đến việc quyết định hình phạt là không giống nhau. Tuỳ từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.
Trên đây là toàn bộ những nội dung và thông tin mà chúng tôi muốn cung cấp cho các bạn có liên quan đến việc xác định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Theo đó thì một phần nào đó giúp cho các bạn có thể hiểu thế nào là trách nhiệm hình sự và những tiết tiết giảm nhẹ được quy định trong bộ luật hình sự và những tình tiết giảm nhẹ khác là gì. Từ đó biết cách bảo vệ quyền và lợi ích của mình một cách tốt nhất có thể. Không chỉ liệt kê các tình tiết giảm nhẹ với các nhân phạm tội mà chúng tôi còn nêu tình tiết giảm nhẹ với pháp nhân. Nếu các bạn còn có những câu hỏi thắc mắc khác thì có thể liên hệ với chúng tôi thông qua địa chỉ email lienhe@luatminhkhue.vn hoặc qua số điện thoại tổng đài 19006162.
Ngoài ra thì các bạn còn có thể tham khảo một số bài viết sau:
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là gì?
Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và ví dụ chi tiết