1. Hiểu thế nào là đoạn văn?

Đoạn văn được dùng với để chia sự phân đoạn nội dung và ý trong một văn bản. Một văn bản thông thường bao gồm nhiều đoạn văn khác nhau: Đoạn mở đầu giới thiệu về nội dung của văn bản, các đoạn khai triển nội dung, và đoạn kết thúc văn bản. Mỗi đoạn văn cần phải có sự hoàn chỉnh về mặt ý và nội dung. Tuy nhiên, việc xác định một ý hoàn chỉnh và nội dung cụ thể cho mỗi đoạn không có tiêu chí cố định.

Sự phân chia và chấp nhận về độ dài của mỗi đoạn văn có thể thay đổi tùy thuộc vào người đọc. Có người chia theo ý lớn, mỗi đoạn bao gồm hai hoặc ba ý nhỏ được khai triển từ ý lớn, và mỗi ý nhỏ này có thể được trình bày trong một đoạn văn riêng biệt. Tuy nhiên, cũng có người chia theo ý nhỏ, mỗi đoạn văn tập trung vào một ý nhỏ cụ thể và độc lập, trong đó mỗi đoạn văn đại diện cho một phần của ý lớn.

Sự phân chia và cấu trúc của đoạn văn thường phụ thuộc vào cách mà người viết muốn trình bày ý và nội dung của họ, cũng như cách mà người đọc hiểu và tương tác với văn bản. Cách hiểu này dẫn đến việc phân đoạn trở nên thiếu sự khách quan. Với cách tiếp cận này, không có sự xác định rõ ràng về cấu trúc của đoạn văn (bắt đầu từ đâu, thế nào, và cách các câu trong đoạn liên kết với nhau...) điều này khiến cho quá trình xây dựng đoạn văn trở nên phức tạp và khó khăn hơn, và cũng khó để rèn luyện các kỹ năng và kĩ thuật cần thiết để viết một đoạn văn xuất sắc.

Ví dụ về đoạn văn:

“Vì ông lão yêu làng tha thiết nên vô cùng căm uất khi nghe tin dân làng theo giặc(1). Hai tình cảm tưởng chừng mâu thuẫn ấy đã dẫn đến một sự xung đột nội tâm dữ dội( 2). Ông Hai dứt khoát lựa chọn theo cách của ông: Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù( 3). Đây là một nét mới trong tình cảm của người nông dân thời kì đánh Pháp(4). Tình cảm yêu nước rộng lớn hơn đã bao trùm lên tình cảm đối với làng quê(5). Dù đã xác định như thế, nhưng ông Hai vẫn không thể dứt bỏ tình yêu đối với quê hương; vì thế mà ông xót xa cay đắng”(6).

Về nội dung:

- Chủ đề của đoạn văn trên là: tâm trạng mâu thuẫn của ông Hai khi nghe tin làng mình theo giặc. Chủ đề này tập trung khái quát ở câu 1, 2.

- Đoạn văn trên có ba phần:

+ Câu 1, 2 là phần mở đoạn. Phần này chứa đựng ý khái quát của cả đoạn văn, gọi là câu chủ đề. Câu chủ đề có thể là một hoặc hai câu văn.

+ Câu 3,4,5 là phần thân đoạn. Phần này triển khai đoạn văn, mỗi câu văn đề cập tới một biểu hiện cụ thể của chủ đề, liên quan tới chủ đề của đoạn văn.

+ Câu 6 là phần kết đoạn. Phần này khắc sâu chủ đề của đoạn văn.

- Đây là đoạn văn có kết cấu đầy đủ cả ba phần: mở đoạn, thân đoạn và kết đoạn. Khi viết đoạn văn, không phải bao giờ cũng nhất thiết có đủ ba phần như vậy. Ví dụ: Đoạn quy nạp, câu mở đầu đoạn không chứa đựng ý khái quát mà là câu cuối cùng; đoạn diễn dịch, câu cuối cùng kết thúc đoạn không chưa đựng ý khái quát, chủ đề đã được nêu rõ ở câu mở đoạn.

Về hình thức:

- Đoạn văn trên được tạo thành bằng 6 câu văn được liên kết với nhau bằng các phép liên kết hình thức: phép thế, phép lặp.

- Đoạn văn trên được viết giữa hai dấu chấm xuống dòng, chữ cái đầu đoạn được viết lùi vào một chữ và viết hoa.

 

2. Luyện tập viết đoạn văn

 Viết một đoạn văn diễn dịch, kết thúc đoạn là một câu cảm thán, phân tích lòng yêu nghề, say mê công việc của anh thanh niên trong tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long.

Thông thường, các thao tác viết đoạn được diễn ra như sau:

- Người viết đọc kĩ bài tập, xác định đúng những yêu cầu của bài tập về nội dung và hình thức. Với bài tập trên, yêu cầu về nội dung là phân tích lòng yêu nghề, say mê công việc của nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm “ Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long; yêu cầu về hình thức là viết đoạn văn theo mô hình diễn dịch, kết thúc đoạn là một câu cảm than.

- Người viết lập ý cho đoạn văn và định hình vị trí các câu trong đoạn ,phương tiện liên kết đoạn; đặc biệt là các yêu cầu cụ thể về viết câu (câu cảm thán, câu hỏi tu từ, câu ghép,…) trong đoạn.

   + Tìm ý cho đoạn văn. Với bài tập trên: đây là đoạn văn phân tích đặc điểm nhân vật, đặc điểm nổi bật của anh thanh niên trong tác phẩm là lòng yêu nghề, say mê công việc. Vậy muốn tìm ý cần trả lời các câu hỏi: nghề nghiệp, công việc cụ thể của anh là gì? Công việc đó có ý nghĩa như thề nào? Anh có những suy nghĩ gì về công việc của mình? Em có nhận xét, đánh giá về suy nghĩ của anh thanh niên như thế nào?...

   + Xác định mô hình cấu trúc đoạn văn: Với đề bài trên là đoạn diễn dịch: câu mở đoạn là câu chủ đề, nội dung giới thiệu khái quát về đặc điểm nổi bật của nhân vật anh thanh niên là yêu nghề, say mê công việc và có tinh thần trách nhiệm cao. Những câu khai triển tiếp theo nêu ra công việc cụ thể của nhân vật, phân tích thái độ, tinh thần, ý nghĩa công việc mà nhân vật làm, nêu nhận xét đánh giá của người viết về nhân vật,…

   + Xác định và định hình kiểu câu và vị trí kiểu câu đó trong đoạn văn cần viết; hoặc phép liên kết cần viết trong đoạn văn đó. Với bài tập trên, kết thúc đoạn là câu cảm thán: câu cuối đoạn nhận xét và thể hiện thái độ tình cảm của người viết theo hướng ngợi ca tinh thần trách nhiệm, nhận thức hoặc suy nghĩ của nhân vật anh thanh niên.

- Người viết dùng phương tiện ngôn ngữ (lời văn của mình) để viết đoạn văn. Khi viết cần chú ý diễn đạt sao cho lưu loát, mạch lạc. Giữa các câu trong đoạn không chỉ có sự liên kết về nội dung theo chủ đề của đoạn mà còn có sự liên kết hình thức bằng các phép liên kết; phối hợp nhiều kiểu câu để lời văn sinh động; từ ngữ dùng cần chính xác, chân thực, mang tính hình tượng và hợp phong cách; chữ viết đúng chính tả.

- Đọc lại và sửa chữa. Viết xong, người viết cần đọc kiểm tra lại xem đoạn văn đã đáp ứng được những yêu cầu của bài tập về nội dung và hình thức chưa; nếu thấy chỗ nào chưa ổn cần chỉnh sửa lại.

>> Xem thêm: 45 Đề ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn

 

3. Cấu trúc thi vào 10 môn Ngữ Văn

Trong quá trình ôn thi để nhập học vào lớp 10 môn Ngữ Văn, học sinh cần phải hiểu rõ cấu trúc của đề thi để có sự chuẩn bị đầy đủ và tự tin nhất. Đề thi môn Ngữ Văn thường gồm hai phần chính:

Phần I: Đọc – Hiểu văn bản Học sinh sẽ được cung cấp một đoạn văn bản cụ thể và nhiệm vụ của họ là đọc và sau đó trả lời các câu hỏi liên quan đến đoạn văn đó. Nội dung của bài thi thường đa dạng, thường được trích từ các tác phẩm thơ và văn xuôi mà học sinh đã học. Phần đọc hiểu thường đi kèm với một bài tập làm văn.

Học sinh cũng cần ôn tập cho kỳ thi lớp 10 môn Ngữ Văn bằng cách trả lời các câu hỏi về đoạn văn. Các câu hỏi thường không quá khó, thường xoay quanh việc xác định các biện pháp nghệ thuật được sử dụng, biện pháp tu từ, và các yếu tố tương tự. Cuối cùng, phần tập làm văn yêu cầu học sinh phải có kiến thức đa dạng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, và biết cách áp dụng kiến thức đó vào bài viết để giải thích hoặc chứng minh luận điểm của mình.

Phần II: Làm văn Học sinh sẽ được giao hai bài làm văn, bao gồm một bài nghị luận xã hội và một bài nghị luận văn học. Phần nghị luận văn học thường được đánh giá cao nhất, do đó, trong quá trình ôn tập, học sinh cần phải tập trung vào việc ôn luyện các tác phẩm thơ và văn xuôi một cách tỉ mỉ.

Nội dung của bài nghị luận xã hội thường tập trung vào các vấn đề xã hội nóng bỏng trong cuộc sống hiện nay. Để chuẩn bị cho phần này, bạn cần biết cách thu thập thông tin, tìm hiểu về các vấn đề xã hội để có sự đầy đủ và chuẩn bị tốt nhất cho kỳ thi lớp 10 môn Ngữ Văn.

Quý khách có thể đọc thêm bài viết liên quan cùng chủ đề như sau: Cách trình bày đoạn văn: Diễn dịch, quy nạp, song hành, móc xích, tổng phân hợp