1. Dàn ý hướng dẫn phân tích

1.1. Mở bài

Dẫn dắt vào vấn đề nghị luận: Chất thơ trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ"

 

1.2. Thân bài

a. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm

b. Chất thơ được thể hiện trong tác phẩm:

- Chất thơ trong hình ảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc:

  • Hình ảnh đặc trưng của núi rừng Tây Bắc: đồi núi, rừng cây trùng điệp quanh năm ẩn hiện trong mây và sương mù;
  • Thể hiện rõ nét nhất khi tác giả miêu tả về khung cảnh mùa xuân nơi đây;
  • Cách sử dụng câu từ, nhịp điệu câu thơ, thủ pháp nghệ thuật tạo nên một bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi.

- Chất thơ qua đời sống sinh hoạt và phong tục tập quán của người dân Tây Bắc:

  • Những hình ảnh quen thuộc của tập quán, lối sống sinh hoạt giúp người đọc như đang được trải nghiệm cuộc sống thực nơi ấy;
  • Miêu tả về ngày Tết: thời gian diễn ra, không khí ngày Tết Hồng Ngài mang nét rất riêng, rất đặc trưng, đặc biệt là cách tác giả miêu tả tiếng sáo.

- Chất thơ trong con người- xây dựng hình ảnh và tâm hồn của nhân vật Mị:

  • Vẻ đẹp của Mị như một bông hoa ban trên rẻo cao Tây Bắc. Vì món nợ truyền kiếp của gia đình nên Mị đành phải làm con dâu gạt nợ, rơi vào cuộc sống tăm tối nhưng không vì thế mà mất đi khát vọng sự tự do, mất đi tâm hồn khát sống và giàu tình yêu thương;
  • Vẻ ngoài đối lập với bên trong, bên ngoài âm thầm nhẫn nhịn, nhưng bên trong đó là một sức sống tiềm tàng mãnh liệt;
  • Tâm hồn của Mị khi nghe tiếng sáo quen thuộc của núi rừng Tây Bắc

- Chất thơ trong cách thể hiện qua ngôn ngữ nghệ thuật:

  • Sử dụng các từ để miêu tả âm thanh, hình ảnh gợi cảm, màu sắc;
  • Ngôn ngữ văn xuôi vừa cụ thể vừa rõ ràng;
  • Âm điệu và tiết tấu nhẹ nhàng, chầm chậm từ từ dẫn dắt tâm hồn người đọc trôi theo cảnh vật và tâm trạng nhân vật;
  • Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lãng mạn vốn có trong thơ với chất hiện thực.

1.3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị của tác phẩm cũng như phong cách nổi bật của nhà văn.

>> Xem thêm: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ hay nhất

 

2. Bài mẫu tham khảo

2.1. Mở bài

Paustovsky từng viết "văn xuôi là sợi cốt còn thơ là sợi ngang. Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không đựng chất thơ sẽ trở thành thô thiển, thành một thứ chủ nghĩa tự nhiên không cánh, không thúc gọi, không dẫn dắt đi đâu cả", thật vậy một chất thơ được thổi vào tác phẩm sẽ trở thành một chiếc cầu nối mềm mại đưa văn xuôi thấm vào tâm hồn người đọc một cách êm ái và dịu dàng. Cũng vì lẽ đó mà dù tác phẩm có miêu tả cảnh đời thực, miêu tả những cuộc đời lam lũ, mệt nhọc thì vẫn đều được chọn lọc ở những mặt kết tinh tiêu biểu, ở những chi tiết và hình ảnh chân thực chất, đó là sự phát hiện đối tượng khách quan với những phần nên thơ của nó, cung cấp cho nó một hình dáng, một ký tưởng đẹp. Chính vì thế, mà tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" của nhà văn Tô Hoài không chỉ tả thực khung cảnh thiên nhiên, số phận con người Tây Bắc mà tác phẩm còn mang đậm chất thơ trong đó.

 

2.2. Thân bài

Tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" là kết quả của chuyến đi lên Tây Bắc cùng bộ đội giải phóng của nhà văn Tô Hoài vào năm 1952. Trong chuyến đi này, ông đã sống gắn bó, nghĩa tình, sẻ chia với các dân tộc đồng bào nơi đây, đồng thời ông cũng nhận thức, khám phá được những nét mới của cuộc sống, của hiện thực kháng chiến ở nơi núi rừng Tây Bắc. Khi đến với tác phẩm này, nếu "đọc vội" cũng có thể thấy được sự phong phú của hiện thực đời sống, đón nhận được niềm cảm thương, trân trọng của tác giả dành cho những số phận người nông dân nghèo nơi vùng cao Tây Bắc. Nhưng để hiểu hơn về tác phẩm, muốn nắm bắt những ý hay, mạch cảm xúc của tâm hồn nhân vật, của tác giả thì cần phải đọc chậm, đọc sâu. Và chính cách đọc sâu, cảm nhận từ từ đấy trí tưởng tượng của ta đa được mở ra để theo kịp ngòi bút của tác giả đến với những bức tranh thiên nhiên, tâm hồn nhân vật thấm đẫm đầy chất thơ trữ tình.

Chất thơ trong tác phẩm văn học ấy chính là vẻ đẹp lãng mạn, nó tương phản với đời sống hiện thực nhưng lại được lấy cảm hứng, thoát lên từ đời sống thực. Bởi hiện thực là những cái vốn có, chân thật còn chất thơ là ước mơ, lý tưởng, là cái đẹp mà con người phát hiện ra và muốn hướng tới. Trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" Tô Hoài đã bao phủ lên trên đó một chất thơ bàng bạc, bao phủ khắp mọi ngóc ngách, mọi câu từ trong tác phẩm, lan tỏa những giá trị vô cùng đẹp đẽ:

Chất thơ ấy trước hết được hiện lên qua lăng kính của nhà văn miêu tả về hình ảnh thiên nhiên vùng núi rừng Tây Vắc vời vợi với những núi non, nương rẫy, sương giăng,...không thể lẫn được với một nơi nào trên đất nước ta. Không gian núi rừng trùng điệp đã bước đầu hiện lên qua khung cửa sổ của Mị bé tí bằng bàn tay đó là "chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng", không gian ấy chỉ có thể tìm được ở Tây Bắc, ban ngày ánh nắng mặt trời khó có thể xua tan được những màn sương giăng trắng trên làng bản. Và những ngày giáp Tết đã được nhà văn miêu tả thật thơ mộng đó là hình ảnh "trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho", "trẻ con đốt những lều canh nương", "gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa đã đem phơi trên những mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ, gió và rét rất dữ dội". Thiên nhiên Tây Bắc đã hiện lên với những hình ảnh yên bình, êm ả mà thấm đẫm chất thơ, "ý thơ" ấy đã lột tả được hồn cốt thiên nhiên Tây Bắc trùng điệp, cao rộng vời vợi: Không gian núi rừng Việt Bắc với màu xanh bạt ngàn, màn sương giăng phủ khắp mọi nơi, điểm trên nền đó là những dấu ấn của con người đó là những nương lúa, nương ngô uốn lượn trên sườn núi, đống lửa ấm áp rực đỏ từ các lều canh nương, màu vàng của cỏ gianh, sắc màu sặc sỡ của những cô gái H'mông- đó là những điểm nhấn đầy chất thơ cho bức tranh thiên nhiên rẻo cao.

Tiếp đó, chất thơ lan tỏa và bao trùm lên cả những câu văn miêu tả về đời sống sinh hoạt và phong tục tập quán của đồng bảo nơi đây. Tác giả đã rất tài tình trong khi xây dựng những hình ảnh quen thuộc trong đời sống thường nhật rất đỗi quen thuộc của người dân Tây Bắc như: ngôi nhà gỗ với chiếc bếp luôn rực lửa trong suốt mùa đông giá rét, là những công việc hằng ngày như cõng nước, cắt cỏ cho ngựa ăn, quay sợi, cùng với đó là vẻ đẹp của những chiếc váy xòe sặc sỡ đi kèm với những chiếc vòng bạc lấp lánh của những người phụ nữ H'mông. Không khí ngày xuân của Hồng Ngài cũng thấm đẫm chất thơ với những hình ảnh, dấu ấn đậm hương vị núi rừng Tây bắc: đó là mùa xuân, mùa của những đôi trai gái tìm đến nhau để trao lời yêu thương, để tỏ tình. Họ diện những bộ đồ đẹp nhất, sặc sỡ nhất, họ cùng nhau ném pao, chơi quay, thổi sáo, nhảy múa, uống rượu, đôi môi,...tất cả đều say sưa, chìm đắm trong tiếng sáo dìu dặt, tình tứ, nhẹ nhàng, một "tiếng sáo réo rắt suốt đêm ngoài đầu núi tranh". Dù bao năm tháng đã trôi qua, nhưng tiếng sáo ấy đã đi sâu và trở thành nét độc đáo không thể thiếu của mảnh đất này "suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đúng thổi sáo xung quanh vách", tiếng sáo ấy đã trở thành dòng chảy tâm hồn của biết bao đôi trai gái miền sơn cước. Và những "đám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân trước nhà", lối miêu tả phong tục ngày Tết của Tô Hoài với cách kể chuyện hơi ngập ngừng, sự tiếp xúc phong tục miền núi có đôi chút tò mò và hóm hỉnh "trai gái kéo nhau lên núi chơi. Đi chơi trên núi từng đoàn", "các chị Mèo đỏ, váy thêu, áo khoác, khăn hoa chùm rực rỡ. Các chị Mèo trắng chít khăn xếp phẳng lì, tóc mai cạo xanh nhẵn".

Thiên nhiên trong bức tranh ấy thật đẹp mang đầy chất thơ, và cũng chính thiên nhiên ấy đã nuôi dưỡng con người, người dân nơi đây trưởng thành qua bao thế hệ. Đi từ cội nguồn ấy, Tô Hoài bắt đầu khám phá chất thơ trong con người nơi đây, mà nét đặc sắc nhất được thể hiện ở tâm hồn nhân vật chính đó là Mị. Vì món nợ truyền kiếp của gia đình mà Mị phải sống cuộc đời lầm lũi "đến bao giờ chết thì thôi" của một người con dâu gạt nợ. Đối lập với vẻ bề ngoài cam chịu, héo hắt ấy là một tâm hồn rạo rực, một sức sống tiềm tàng mang khát vọng tự do, tình yêu, hy vọng vào cuộc sống. Điều này thể hiện rõ nét khi Mị nghe thấy tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân vọng về, lòng Mị lại "thiết tha bổi hổi", tiếng sáo trao duyên ấy đã chạm vào tâm hồn của Mị, làm cho tâm hồn ấy rạo rực và sống lại với cảm xúc của cô gái trẻ xưa kia. "Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uống chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị", từ sự hồi ức ấy, tiếng sáo cũng đã thức tỉnh tâm hồn của Mị "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi,...). Ngỡ tưởng tâm hồn của người con gái ấy đã lụi tàn trong cuộc sống không bằng con trâu con ngựa, nhưng không, Mị đã sống lại trong tâm hồn. Hóa ra tâm hồn của người con gái ấy không lụi tàn mà tràn trề sức sống, rạo rực như hòn than luôn đỏ lửa bị phủ bởi lớp tro tàn nguội lạnh. Chỉ cần một cơn gió, một tác nhân là hòn than ấy lại rực lửa đầy sức sống. Đó chính là chất thơ, chất thơ chứa đựng trong nỗi khát khao mãnh liệt về tương lai tốt đẹp, tươi sáng của mỗi con người, và chất thơ trong một tâm hồn vượt lên trên tất cả tăm tối của cuộc sống.

Dĩ nhiên, để tạo nên chất thơ ấy không thể không nhắc đến nghệ thuật sử dụng ngôn từ của Tô Hoài. Trong tác phẩm, nhà văn đã sử dụng ngôn từ tài tình để miêu tả hàng loạt các âm thanh, các hình ảnh gợi cảm rất nên thơ và đậm đà màu sắc của cuộc sống vùng cao Tây Bắc, cùng với đó là những âm điệu câu văn, giọng miêu tả cùng tiết tấu nhịp nhàng, chậm rãi. Và có thể nói chất thơ ấy được tạo nên bởi sự kết hợp nhuần nhuyễn tài tình của một văn phong điêu luyện với bút pháp lãng mạn trữ tình. Đây là sự cộng hưởng của trữ tình và văn xuôi, chất thơ làm say đắm lòng ở vẻ đẹp huyền diệu của thiên nhiên và cốt cách, tâm hồn của con người; chất thơ làm độc giả say mê đi theo dòng văn, mạch cảm xúc của tác giả và cả nhân vật; chất thơ ấy cũng để lại bao ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc, làm rung lên bao cảm xúc sắc thái trong tâm hồn người đọc. Chính phong cách nghệ thuật và tài năng của Tô Hoài đó đã tái hiện, nắm bắt tinh tế những sự chuyển biến của màu sắc, âm thanh, ánh sáng, mùi vị trong thiên nhiên, tâm hồn cao đẹp của con người, và kết tinh lại thành những bầu không khí trữ tình, trong trẻo, đẹp đẽ bao quanh thế giới của tác phẩm. 

 

2.3. Kết bài

"Vợ chồng A Phủ" với chất thơ bàng bạc len lỏi xuyên suốt tác phẩm đã tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp về thiên nhiên và con người nơi rẻo cao Tây Bắc. Với những hình ảnh đó, cùng với giá trị ý nghĩa về nội dung, sự sáng tạo về nghệ thuật Tô Hoài đã để lại một dấu ấn riêng, một phong cách sáng tác độc đáo đối với người đọc.

Trên đây là những gợi ý mà Luật Minh Khuê muốn gửi tới các bạn về chất thơ trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" của nhà văn Tô Hoài. Tham khảo thêm: Phân tích giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ chọn lọc