Mục lục bài viết
Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Hình sự của Công ty luật Minh Khuê
>> Luật sư tư vấn pháp luật Hình sự, gọi: 1900.6162
Trả lời:
Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Minh Khuê. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:
Luật sư tư vấn:
1. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
Theo Điều 2 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 Cơ sở của trách nhiệm hình sự bao gồm:
- Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
2. Tội Phạm là gì?
Căn cứ Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về tội phạm cụ thể như sau:
- Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
- Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác
3. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
4. Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
Căn cứ chương IV Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự bao gồm:
- Sự kiện bất ngờ
- Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
- Phòng vệ chính đáng
- Tình thế cấp thiết
- Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
- Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
- Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên
Cụ thể như sau:
"Điều 20. Sự kiện bất ngờ
Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 21. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 22. Phòng vệ chính đáng
1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.
Điều 23. Tình thế cấp thiết
1. Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.
2. Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 24. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
1. Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.
2. Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 25. Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.
Người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 26. Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên
Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.
Quy định này không áp dụng đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 421, khoản 2 Điều 422 và khoản 2 Điều 423 của Bộ luật này."
5. Áp dụng kỹ thuật, công nghệ mà phát sinh các rủi ro ngoài dự kiến
Đây là trường hợp gây thiệt hại do tiến hành các hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật, công nghệ và việc gây thiệt hại này không bị coi là tội phạm.
Nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật và công nghệ là các hoạt động cần thiết cho sự phát triển chung của xã hội về các mặt nhưng các hoạt động này cũng luôn chứa đựng rủi ro, gây thiệt hại cho xã hội. ở đây có sự xung đột giữa lợi ích mà chủ thể muốn mang lại cho xã hội và thiệt hại cho xã hội mà họ có thể gây ra. Để tạo cơ sở pháp lí đảm bảo sự yên tâm cũng như sự thận trọng của chủ thể trong các hoạt động có tính rủi ro như vậy, luật hình sự cần xác định đây là một trong các căn cứ hợp pháp của hành vi gây thiệt hại. Do vậy, BLHS năm 2015 đã được bổ sung căn cứ này. Điều 25 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:
“Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng các quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ các biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.
Người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ các biện pháp phòng ngừa mà gầy thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Nội dung quy định của Điều 25 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đã xác định rõ cơ sở cũng như các điều kiện cho phép gây thiệt hại trong các hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật và công nghệ mới không bị coi là tội phạm (sau đây, trường hợp này được gọi tắt là gây thiệt hại do rủi ro).
5.1. Cơ sở của gây thiệt hại do rủi ro
Cơ sở cho phép ttong trường hợp này là phải có một ưong các hoạt động sau:
- Nghiên cứu;
- Thử nghiệm hoặc
- Áp dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật, công nghệ mới.
Mục đích của các hoạt động ttên đây là nhằm đem lại lợi ích chung cho xã hội.
Như vậy, có 3 hoạt động cho phép có thể gây thiệt hại và các hoạt động đó phải có đối tượng là các tiến bộ về khoa học, về kĩ thuật hoặc về công nghệ. Đồng thời các đối tượng đó phải có tính mới. Mục đích chung của 3 hoạt động này là hướng tới lợi ích cho xã hội.
5.2. Các điều kiện của gây thiệt hại do rủi ro
Khi thực hiện hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật và công nghệ, chủ thể hoạt động tuy được phép có thể gây thiệt hại về tài sản, về kinh tế hoặc cũng có thể là về thể chất nhưng việc gây thiệt hại chỉ được coi không phải là tội phạm khi:
- Các quy trình, quy phạm có liên quan đến hoạt đã được tiến hành được tuân thủ đúng và
- Các biện pháp phòng ngừa trong điều kiện chung cho phép được áp dụhg đầy đủ.
Hai điều kiện trên đây thể hiện tính tuân thủ pháp luật cũng như sự thận trọng của chủ thể trong việc cân nhắc các khả năng có thể xảy ra, lường trước các khả năng xấu để chuẩn bị các biện pháp phòng ngừa cũng như biện pháp xử lí khi xảy ra “rủi ro” nhằm giảm thiểu thiệt hại.
Nếu một trong các quy trình, quy phạm có liên quan không được tuân thủ cũng như khi một trong các biện pháp phòng ngừa không được áp dụng thì việc gây thiệt hại bị coi là tội phạm. Khi đó, người có trách nhiệm tuân thủ quy trình, quy phạm và áp dụng biện pháp phòng ngừa phải chịu trách nhiệm hình sự về thiệt hại đã gây ra theo tội danh tương ứng.
Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến lĩnh vực hình sự về tạm giam, tạm giữ khi điều tra hình sự, Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể.
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty luật Minh Khuê