Phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình trong Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất

Hàn Mặc Tử như một vì sao sáng huyền ảo trên bầu trời thơ ca Việt Nam. Thơ Hàn Mặc Tử thể hiện cả tình yêu và trí tuệ với cuộc sống trần gian và hướng tới Thượng đế với những tinh linh thần tiên. Đã có nhiều luồng nhận xét cho rằng kiệt tác Đây thôn Vĩ Dạ là một bản nhạc tuyệt vời nhất của Hà Mặc Tử. Tuy nhiên, ai cũng thấy bài thơ nói về tình yêu - một tình yêu đơn phương thơ mộng, trong sáng. Tuy nhiên, khó có thể phủ nhận rằng Hàn Mặc Tử đã nói khá hay về Huế mộng mơ và thơ ca. Đây thôn Vĩ Dạ chỉ có 3 khổ thơ, tổng cộng có 12 câu thơ.

Ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? 

“Trăng sõng soài trên cành liễu

- Đợi gió đông về để lả lơi…”

(“Bẽn lẽn”) 

Nhà thơ còn nói đến con đò, dòng sông trăng. Một bầu trời thơ mộng và huyền ảo. Thơ Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng, thể hiện tâm hồn “yêu trăng” với tình yêu thiết tha với cuộc đời, vừa thực vừa mộng. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới (1932-1941). Năm 28 tuổi (1912-1940), ông đã để lại cho nền thơ ca nước nhà hàng trăm bài thơ và một số đoạn thơ. Thơ ông dường như tràn ngập máu và nước mắt, với nhiều hình ảnh kinh dị. Chưa có ai làm thơ hay về mùa xuân và thiếu nữ Huế (“Mùa xuân chín”), về Huế đẹp và thơ (“Đây thôn Vĩ Dạ”) như Hàn Mặc Tử.

“Đây thôn Vĩ Dạ” trích trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài thơ nói rất hay về xứ Huế, cảnh thiên nhiên hữu tình, con người xứ Huế, đặc biệt là những cô gái duyên dáng, đằm thắm, đáng yêu - một tình yêu nồng nàn, thơ mộng, lung linh trong ánh sáng diệu kỳ. Đoạn thơ thể hiện một nỗi nhớ nhung, khát khao hạnh phúc của nhà thơ trong mối tình nhiều duyên với cảnh và người Vĩ Dạ.

Câu đầu “dịu ngọt” như một lời mời gọi, vừa vui tươi hân hoan, vừa nhẹ nhàng trách móc người thương nhớ mong chờ. Giọng thơ nhẹ nhàng, đằm thắm, trìu mến: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Cảnh xưa người xưa thấp thoáng trong những vần thơ thật đẹp với nỗi nhớ. Bao kỉ niệm sống dậy trong hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc miệt vườn và con người xứ Huế mộng mơ:

Tác phẩm có lẽ là lời trách móc thầm lặng, đồng thời cũng là lời nhắn gửi ngọt ngào của nhân vật trữ tình, trong tâm trạng hoài niệm, nhớ nhung:

Sao anh không về chơi thôn Vi?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền?

Nếu mỗi mối tình gắn với một không gian và thời gian cụ thể thì mỗi hình ảnh của nhân vật trữ tình trong bài thơ này lại gắn với khu vườn và con người Vĩ Dạ, tất cả đều là những kỉ niệm khó quên. Nếu có dịp, bạn hãy ghé thăm thôn Vĩ vào một buổi sớm mai Vĩ Dạ nằm bên bờ sông Hương êm đềm và thơ mộng, chỉ cách trung tâm cố đô Huế khoảng một giờ đi bộ. Từ xa xưa, thôn Vĩ Dạ đã nổi tiếng với những hàng cây xanh mướt và những ngôi biệt thự nhỏ xinh xắn, rợp bóng cây lá xanh mướt. Đây thôn Vĩ Dạ còn nổi tiếng như sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ... của xứ này. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng như Nguyễn Bính, Bích Khuê, Nguyễn Tuân… đều dành những cảm xúc cho bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

Sáng sớm, ánh nắng mới chiếu rọi trên những tàu cau còn ướt sương đêm. Du khách từ xa sẽ nhìn thấy hàng cau trước tiên, vì nó thường cao hơn những tán cây xum xuê bên dưới. Đất Vĩ Dạ màu mỡ, người chăm bón; Quả thật, cây cối ở đây xanh mướt, sạch sẽ như được quét dọn, cắt tỉa như cành vàng lá ngọc. 

Lá trúc che ngang mặt chữ điền?

Thật là một sự sáng tạo độc đáo. “Khuôn mặt chữ điền” gợi cho người đọc hình ảnh những người có khuôn mặt vuông vức, thân hình mạnh mẽ, nam tính. Nhưng, khi đặt hình ảnh này trong câu thơ và câu thơ: “Lá tre che mặt chữ điền” thì ấn tượng nổi bật là sự hòa hợp, gắn bó thân thiết giữa con người với mảnh vườn quê hương. Vậy nên câu thơ cũng diễn tả thành công một nét đáng nhớ; thôn Vĩ hữu tình: phong cảnh tươi tốt tươi tốt; những người tốt đẹp tràn đầy sức sống.

Tiếp nối mạch cảm xúc của khổ thơ đầu, dường như ở khổ thơ thứ hai nhà thơ đã có vai trò (giỏi tả cảnh sóng nước, mây trời xứ Huế và cũng bộc lộ nỗi niềm nhớ mong:

Gió theo lối gió mây đường mây,

Dòng nước buồn thiu hoa bắp bay;

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Nhịp điệu mềm mại, nhẹ nhàng của Huế được miêu tả thành công: gió và mây nhẹ nhàng bay đi; Dòng sông Hương lặng lẽ chảy. Những bông hoa ngô đồng (hoa bắp) khẽ đung đưa trong gió. Khác với khổ thơ đầu, ở khổ thơ thứ hai này không gian được miêu tả như trong mơ, tràn ngập ánh trăng. Nhà thơ không chỉ cho ta thấy, không chỉ thấy bằng mắt mà quan trọng hơn là “thấy” bằng thế giới tâm hồn của mình: giữa thực và mộng không còn ranh giới và dường như ông đang đi về phía tận thế. thế giới tâm linh, thế giới tưởng tượng lấn át thế giới thực. Vì đây là mộng ảo nên có một trăn trở rất mộng mơ:“Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó – Có chở trăng về kịp tối nay?”. Sự chuyển kiếp của vầng trăng được nhiều nhà thơ nhắc đến. nhưng “Sông trăng” thì có lẽ Hàn Mặc Tử là người sáng tạo đầu tiên. Dường như trong những câu thơ trên có sự chờ mong, hi vọng và cả nỗi buồn của nhà thơ, ở đây rõ ràng không có nét độc đáo của một phong cách diễn tả chính xác tâm hồn đất nước, mà quan trọng hơn: những phác họa ấy gợi lên trong người đọc một tình yêu mà dịu dàng, kín đáo nhưng sâu lắng và rộng mở đến vô cùng. Cảm nhận của người đọc về điều trên sẽ được nhà thơ nhấn mạnh ở khổ thơ cuối:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Đúng là kinh đô Huế mưa nhiều, sương khói nhiều. Vậy phải chăng khổ thơ trên có nét tả thực, giống như “hàng cau”, “lá trúc” “hoa bắp”…ở các khổ thơ trước? Sương trắng, áo anh cũng trắng: Nên nếu nhà thơ chỉ thấy bóng người (nhân ảnh) cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, như đã nói, Hàn Mặc Tử vốn là một nhà thơ lãng mạn thực sự, cái chính là nhà thơ nói bằng tâm tư, gieo vào lòng người đọc một thoáng bâng khuâng: Người phụ nữ Huế thật đẹp, thật kín đáo và hay thay đổi; Có ai biết tình mình bền chặt, hay mơ hồ như sương khói xứ Huế? Ở đây, tác giả dường như có cảm giác chới với thất vọng, trước một tình yêu đơn phương lung linh và hay thay đổi. Nếu bạn nhận ra điều đó. Hàn Mặc Tử là một người rất tài hoa, luôn tìm kiếm tình yêu. nhưng căn bệnh phong hiểm nghèo đã ngăn cản nhà thơ có được một tình yêu trọn vẹn.

Nhà thơ đã có lúc phải sống một mình, có lúc trên con thuyền nhỏ không bến bờ, có lúc trên núi non ven thành phố, và cuối cùng phải nằm bơ vơ trong nhà thương Tuy Hòa chờ chết... Càng đồng cảm với phút hờn dỗi, một lời trách móc rõ ràng là vô cớ từ nhà văn đa tài nhưng kém may mắn này. Phải thích người Vĩ Dạ, căn bản phải thích người Huế. Phải hiểu Huế gắn bó sâu nặng đến nhường nào thì nhà thơ mới nói đến tình yêu, đến Huế, hiên ngang và đẹp biết bao!

Hàn Mặc Tử để lại cho đời một bài thơ tình hay. Cảnh và người, mộng và thực, nồng nàn và bùi ngùi, ngỡ ngàng và ngỡ ngàng, những hình ảnh và cảm xúc đẹp đẽ hội tụ trong ba khổ thơ bảy chữ, những câu văn vẹn toàn. Cảm nhận tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ. Đây thôn Vĩ Dạ, bằng sự thấu hiểu và cảm thông, ta có thể thấy đó là một bài thơ tình tuyệt vời. Màu xanh ngọc bích của vườn, con thuyền trên sông trăng, màu trắng áo em như dẫn hồn tôi về miền khói lửa thôn Vĩ Dạ một thời đã xa.

Trên đây Luật Minh Khuê vừa giới thiệu tới bạn đọc nội dung Phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình trong Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất. Mời các bạn tham khảo!