1. Điều khoản của WTO về RTAs
Uỷ ban về các Hiệp định Thương mại Khu vực của WTO được uỷ quyền đại diện để kiểm tra mối quan hệ giữa chủ nghĩa địa phương và hệ thống thương mại đa phương, uỷ ban này cũng chỉ đạo việc kiểm tra các RTAs đã thông báo và cân nhắc thường xuyên “các vấn đề hệ thống” của mối quan hệ giữa chủ nghĩa địa phương và hệ thống thương mại đa phương. Đại diện của CRTA cũng khuyến khích phát triển các thủ tục hiệu quả hơn nữa để kiểm tra các hiệp định đã thông báo dưới ánh sáng các điều khoản liên quan của WTO.
Dựa vào cuộc thảo luận có hệ thống trong CRTA, phần tóm tắt sau đây làm nổi bật những vấn đề chính có khả năng được nêu ra trong tương lai, cố gắng làm rõ các điều khoản của WTO về RTAs.
- Việc làm rõ hơn nữa khái niệm “phần chủ yếu trong toàn bộ thương mại” sẽ được coi là cần thiết vì nó hiện diện trong khoản 8(b), Điều XXIV của GATT. Trong phần lớn các trường hợp, các chướng ngại là việc loại trừ rõ rệt ngành nông nghiệp. Những bước phát triển hiện nay dường như cho thấy trong tương lai, khó khăn ngày càng tăng khi phải loại bỏ hoàn toàn một ngành ra khỏi phạm vi bao trùm của một khu vực thương mại tự do. Một giải thích được coi là khả dĩ thuộc đường hướng này được củng cố bởi sự diễn đạt trong lời mở đầu Bản ghi nhớ về việc giải thích Điều XXIV của GATT 1994. Một số thành viên WTO cũng đã lý luận rằng thương mại chỉ được tự do hoá từng phần, thông qua FTAs theo ý nghĩa là không có ý định huỷ bỏ thuế trong khoảng thòi hạn họp lý (vượt quá 10 năm chỉ trong những hoàn cảnh ngoại lệ), không thuộc phạm vi của Điều XXIV. Theo những điều chỉ trích này thì thương mại ưu đãi không được xem xét trong việc thẩm định là có hay không “thuế và các quy định hạn chế khác của thương mại được loại trừ trong phần chủ yếụcủa toàn bộ thương mại”. Việc giải thích này đã bị thách thúc.
- Một điều quan trọng khác và được tranh cãi nhiều đề cập đến việc diễn giải mối quan hệ giữa Điều XXIV của GATT 1994 với những hiệp định khác theo Phụ lục IA của Hiệp định WTO. Vấn đề ở đây đối với FTAs liên quan đến thuật ngữ “các quy định thương mại khác được duy trì” tại Điều XXIV, khoản 5(b) và thuật ngữ “những quy định hạn chế thương mại khác” tại Điều XXIV, khoản 8(b). Có những cách nhìn nhận khác nhau điểm này của hiệp định mà theo Phụ lục IA có the nói là được bao quát bởi các điều khoản này. Dù cho rằng thuế quan và biểu thuế thường bị thay thế bằng các biện pháp phi thuế (NTMs) khác nhau như những công cụ chính sách thương mại, song dường như sắp có sự gia tăng sức ép sau này về sự chính xác trong phạm vi của “các quy định thương mại khác”.
- Liên quan đến khoản 5(b) Điều XXIV của GATT và Bản Ghi nhớ về việc giải thích Điều XXIV có sự cần thiết phải làm rõ hơn là “thuế có thể áp dụng khi thành lập FTA đó [mà nó] không cao hơn thuế tương ứng tồn tại trong những lãnh thổ họp thành như nhau trước khi thành lập FTAơ”. Bản Ghi nhớ này phần nào làm sáng tỏ sự mơ hồ liên quan đến liên minh thuế quan (Điều XXIV, khoản 5(a) bằng việc làm rõ hơn thuế đang đề cập là thuế suất được áp dụng. Điều này vẫn đang là vấn đề tranh cãi liên quan đến FTAs và khoản 5(b) Điều XXIV, nhưng cũng có khả năng trong tương lai sẽ có một thoả thuận khác để làm sáng tỏ rằng “thuế có thể áp dụng” và “thuế hiện hành” được hiểu là thuế suất được áp dụng.
- Việc kiểm tra các hiệp định hội nhập kinh tế theo Điều V của GATS hiện nay vẫn chưa gây nhiều chú ý đối với cuộc tranh luận có hệ thống về việc giải thích các điều kiện nêu trong khoản 1 Điều V cho RTAs bao gồm thương mại dịch vụ. Tuy vậy, xem xét từ những kinh nghiệm thu lượm từ việc kiểm tra các hiệp định theo Điều V trong những năm đầu của WTO đã có thể dự kiến rằng các vấn đề như phạm vi bao trùm theo ngành chủ yếu (số ngành, khối lượng thương mại và phương thức cung cấp; ghi chú của Điều 5, khoản 1) hoặc tính chất phảt triển của các hiệp định hội nhập kinh tế, sẽ trở thành những vấn đề bất đồng, tương tự như Điều XXIV của GATT. Những đề xuất đã được đề ra nhằm làm sáng tỏ các tiêu chí nêu tại Điều V.
2. Khoản 5 Điều XXIV của GATT
Do vậy, các quy định của Hiệp định này không gây trở ngại cho việc thành lập một liên minh quan thuế hay khu vực mậu dịch tự do hay chấp nhận một hiệp định tạm thời cần thiết để lập ra một liên minh quan thuế hay khu vực mậu dịch tự do giữa các lãnh thổ thành viên, với bảo lưu rằng
- trong trường hợp một liên minh quan thuế hay một hiệp định tạm thời nhằm lập ra một liên minh quan thuế, thuế quan áp dụng khi lập ra liên minh quan thuế hay khi ký kết hiệp định tạm thời xét về tổng thể không dẫn tới mức thuế cao hơn cũng không tạo ra những quy tắc chặt chẽ hơn so với mức thuế hay quy tắc có hiệu lực vào thời điểm trước khi lập ra liên minh hay hiệp định được ký kết, tại các lãnh thổ tạo thành liên minh dành cho thương mại với các bên ký kết không phải là thành viên của liên minh hay không tham gia hiệp định.
- trong trường hợp lập ra một khu vực mậu dịch tự do hay một hiệp định tạm thời nhằm lập ra một khu vực mậu dịch tự do, thuế quan duy trì tại mỗi lãnh thổ thành viên và được áp dụng với thương mại của các bên ký kết không tham gia khu vực mậu dịch hay hiệp định đó, vào thời điểm khu vực mậu dịch hay ký kết hiệp định sẽ không cao hơn, cũng như các quy tắc điều chỉnh thương mại cũng không chặt chẽ hơn mức thuế quan hay quy tắc tương ứng hiện hành tại mỗi lãnh thổ thành viên trước khi lập ra khu vực mậu dịch hay ký hiệp định tạm thời, tuỳ theo từng trường hợp; và
- mọi hiệp định tạm thời nói đến tại các điểm a) và b) phải bao gồm một kế hoạch và một chương trình thành lập liên minh quan thuế hay khu vực mậu dịch tự do trong một thời hạn hợp lý.
3. Khoản 7 Điều XXIV của GATT quy định điều gì?
Khi quyết định tham gia một liên minh quan thuế hay một khu vực mậu dịch tự do hay một hiệp định tạm thời được ký nhằm lập ra một liên minh hay một khu vực mậu dịch như vậy, bất kỳ bên ký kết nào cũng sẽ thông báo không chậm trễ cho Các Bên Ký Kết biết và cung cấp mọi thông tin cần thiết về liên minh hoặc khu vực mậu dịch để Các Bên có thể có báo cáo hay khuyến nghị cần thiết tới các bên ký kết nêú Các Bên thấy cần thiết.
Nếu sau khi nghiên cứu kế hoạch và chương trình thuộc hiệp định tạm thời đã nêu tại khoản 5, có tham vấn với các bên tham gia hiệp định này và sau khi cân nhắc đúng mức đến các thông tin đã được cung cấp theo quy định tại điểm a), Các Bên Ký Kết đi đến kết luận là hiệp định không thuộc loại dẫn đến thành lập một liên minh quan thuế hay một khu vực mậu dịch tự do trong thời hạn đã được các bên dự liệu hay thời hạn được các bên ký kết hiệp định dự tính là không hợp lý, Các Bên sẽ có khuyến nghị với các bên tham gia hiệp định. Nếu không sắn sàng điều chỉnh cho phù hợp với các khuyến nghị đó, các bên tham gia hiệp định sẽ không duy trì hiệp định hoặc không triển khai hiệp định nữa.
Bất kỳ sự điều chỉnh đáng kể nào trong kế hoạch hay chương trình đã nêu tại điểm c) của khoản 5 phải được thông báo cho Các Bên Ký Kết, Các Bên có thể yêu cầu các bên ký kết liên quan tham vấn, khi sự điều chỉnh thể hiện khả năng thoả hiệp hay làm chậm trễ không chính đáng sự hình thành liên minh quan thuế hay khu vực mậu dịch tự do.
4. Điều V của Hiệp định GATS
Hiệp định này không ngăn cản bất kỳ Thành viên nào gia nhập hoặc ký kết một Hiệp định tự do hóa thương mại dịch vụ giữa hai hoặc nhiều Thành viên, với điều kiện là hiệp định đó:
- có phạm vi thuộc về lĩnh vực chủ yếu, và
- không quy định hoặc xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử giữa hai hoặc nhiều bên, theo tinh thần của Điều XVII, trong những lĩnh vực được nêu tại điểm (a), thông qua
+ xóa bỏ những biện pháp phân biệt đối xử hiện có, và/hoặc
+ cấm những biện pháp phân biệt đối xử mới hoặc áp dụng thêm các biện pháp này dù là tại thời điểm hiệp định đó có hiệu lực hoặc trên cơ sở một lộ trình hợp lý, ngoại trừ những biện pháp được phép áp dụng theo các Điều XI, XII, XIV và XIV bis .
Khi đánh giá xem các điều kiện nêu tại điểm 1 (b) có được đáp ứng không, có thể xem xét mối quan hệ giữa hiệp định với tiến trình hội nhập kinh tế hoặc tự do hóa thương mại rộng hơn giữa các nước liên quan.
- Trong trường hợp những nước đang phát triển là thành viên của một hiệp định thuộc loại nêu tại khoản 1, thì những điều kiện nêu tại khoản 1, đặc biệt là những điều kiện liên quan tới điểm (b) của khoản này, , có thể được xem xét một cách linh hoạt phù hợp với trình độ phát triển của những nước liên quan, cả về tổng thể, trong từng lĩnh vực và tiểu lĩnh vực.
- Cho dù có các quy định tại khoản 6, trong trường hợp một hiệp định thuộc loại nêu tại khoản 1 chỉ liên quan đến các nước đang phát triển thì sự đối xử thuận lợi hơn có thể dành cho các pháp nhân thuộc sở hữu hoặc kiểm soát của các thể nhân thuộc các bên tham gia hiệp định này.
Bất kỳ hiệp định nào nêu tại khoản 1 sẽ được xây dựng nhằm tạo thuận lợi cho thương mại giữa các bên tham gia hiệp định và không tạo ra mức trở ngại chung cao hơn mức đã áp dụng trước khi các hiệp định đó được ký kết trong thương mại dịch vụ với bất kỳ thành viên nào không tham gia hiệp định, dù trong từng ngành hoặc phân ngành dịch vụ.
Khi ký kết, mở rộng hoặc sửa đổi cơ bản bất kỳ hiệp định nào nêu tại khoản 1, Thành viên có ý định rút lại hoặc sửa đổi cam kết cụ thể trái với các cam kết đã nêu tại Danh mục của mình, thì Thành viên đó phải thông báo ít nhất 90 ngày trước khi rút lại hoặc sửa đổi, và sẽ áp dụng các thủ tục quy định tại khoản 2, 3 và 4 của Điều XXI.
Nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác, là pháp nhân thành lập theo luật pháp của một bên tham gia một Hiệp định nêu tại khoản 1 được hưởng sự đối xử theo Hiệp định nói trên, với điều kiện là nhà cung cấp dịch vụ đó có hoạt động kinh doanh đáng kể trên lãnh thổ của các bên tham gia hiệp định này.
- Thành viên là các Bên tham gia vào bất kỳ hiệp định nào nêu tại khoản 1 phải ngay lập tức thông báo về các hiệp định đó và về bất kỳ sự mở rộng nào hoặc bất kỳ sửa đổi cơ bản nào của hiệp định này cho Hội đồng Thương mại Dịch vụ. Khi Hội đồng yêu cầu, các Thành viên đó phải cung cấp ngay các thông tin liên quan. Hội đồng có thể thành lập một nhóm công tác để xem xét hiệp định này hoặc mở rộng hoặc sửa đổi của hiệp định và báo cáo với Hội đồng về sự phù hợp của hiệp định đó với Điều này.
-Các Thành viên là các bên tham gia vào bất kỳ hiệp định nào nêu tại khoản 1 thực hiện trên cơ sở một lịch trình, thì Thành viên đó phải báo cáo định kỳ cho Hội đồng Thương mại Dịch vụ về việc thực hiện hiệp định nói trên. Trong trường hợp xét thấy cần thiết, Hội đồng có thể thành lập ban công tác để xem xét các báo cáo đó.
- Trên cơ sở báo cáo của ban công tác nêu tại điểm (a) và (b), Hội đồng có thể đưa ra khuyến nghị với các bên, nếu xét thấy phù hợp.
Một Thành viên là bên tham gia bất kỳ hiệp định nào nêu tại khoản 1 không được yêu cầu đền bù đối với những quyền lợi thương mại mà bất kỳ một Thành viên nào khác có được từ hiệp định đó.
5. Phân tích Điều V(b)của Hiệp định GATS
Điều V (b) của GATS quy định về các hiệp định về hội nhập thị trường lao động
Hiệp định này không ngăn cản bất kỳ một Thành viên nào trở thành thành viên của một hiệp định về thiết lập thị trường lao động hội nhập hoàn toàn giữa các thành viên của hiệp định, với điều kiện là hiệp định này:
- miễn áp dụng yêu cầu liên quan tới cư trú và giấy phép lao động đối với công dân của các bên tham gia hiệp định;
- được thông báo cho Hội đồng Thương mại Dịch vụ.
Trên đây là nội dung Luật Minh Khuê sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.6162 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.