1. Hiệp định GATT

Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch (tiếng Anh: General Agreement on Tariffs and Trade - GATT) là một hiệp ước được ký kết vào ngày 30 tháng 10 năm 1947, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1948 nhằm điều hòa chính sách thuế quan giữa các nước ký kết.

Kể từ khi GATT được thành lập vào năm 1948, các nước tham gia GATT đã cùng nhau tiến hành nhiều đợt đàm phán để ký kết thêm những thỏa thuận thương mại mới. Mỗi đợt đàm phán như vậy được gọi là một "vòng đàm phán." Nhìn chung, những thỏa thuận thương mại trong các vòng đàm phán đó ràng buộc các nước ký kết phải tiến hành giảm thuế xuất, nhập khẩu cũng như giảm bớt các hàng rào thương mại phi thuế khác đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu. Mức độ giảm thuế khác nhau tùy theo từng nước cũng như từng loại hàng hóa. 8 vòng đàm phán của GATT là:

- Vòng Geneva (1947): bao gồm 23 nước tham gia, GATT bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1948.

- Vòng Annecy (1949): bao gồm 13 nước tham gia.

- Vòng Torquay (1951): bao gồm 38 nước tham gia.

- Vòng Geneva (1956): bao gồm 26 nước tham gia. Tại vòng này đã đạt được những kết quả liên quan đến việc giảm thuế, đề ra chiến lược cho chính sách của GATT đối với các nước đang phát triển, nâng cao vị thế của họ với tư cách là những thành viên tham gia GATT.

- Vòng Dillon (1960-1961): bao gồm 26 nước tham gia. Vòng này chủ yếu bàn về việc giảm thuế. Được đặt tên theo Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ C. Douglas Dillon.

- Vòng Kenedy (1964-1967): bao gồm 63 nước. Nội dung thảo luận cũng vẫn là việc giảm thuế, nhưng lần đầu tiên đàm phán giảm thuế theo một phương pháp áp dụng chung cho tất cả các loại hàng hóa chứ không đàm phán giảm thuế cho từng loại hàng hóa một như các vòng trước. Hiệp định chống bán phá giá được ký kết (nhưng tại Hoa Kỳ không được Quốc hội nước này phê chuẩn).

- Vòng Tokyo (1973-1979): Bao gồm 102 nước. Thảo luận về việc giảm các hàng rào phi thuế cũng như giảm thuế đối với các sản phẩm chế tạo. Tăng cường và mở rộng hệ thống thương mại đa phương.

- Vòng Uruguay (1986-1994): bao gồm 125 nước tham gia. Những nét chính của vòng này là: thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thay thế cho GATT; giảm thuế và các biện pháp trợ cấp xuất khẩu; giảm hạn ngạch và các hạn chế nhập khẩu khác trong vòng 20 năm; ký kết Hiệp định về Bảo hộ Quyền sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại (TRIPS); mở rộng phạm vi áp dụng của luật thương mại quốc tế sang lĩnh vực dịch vụ thông qua Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS); dỡ bỏ hạn chế đối với đầu tư nước ngoài.

2. Nguyên tắc cơ bản của GATT

Các quy tắc của GATT được thiết kế cho nền kinh tế có định hướng thị trường thiết lập các điều kiện cạnh tranh đói vói hệ thống doanh nghiệp tự do. Trong trường họp cần thiết bảo hộ, cấc biện pháp thuế hoặc phi thuế có thể được áp dụng trên cơ sở không phân biệt đối xử. Theo nguyên tắc này, thuế quan hay các quy định khác được ấp dụng đối với hàng nhập khẩu hay xuất khâu không phân biệt đối xử giữa các bên tham gia GATT.

Điều i của GATT đề ra các nguyên tắc then chốt của cách đối xử tối huệ quốc (MFN). Nguyên tắc làm nền tảng này của GATT sau này được mở rộng sang cả các lĩnh vực khác của thương mại ngoài việc buôn bấn hàng hoá: cả thương mại dịch vụ (GATS) và quyền sở hữu trí tuệ liên quan đén thương mại (TRIPS). Những ngoại lệ đối với quy tắc này được định nghĩa rõ ràng và nghiên cứu kỹ lưỡng, thường thì những ngoại lệ được thực hiện dưới các khoản khước từ đặc biệt (Điều XXV của GATT 1994, miễn trừ MFN trong lịch trình GATT), theo Phần IV của GATT 1994 hay còn được gọi là “Điều khoản cho phép” năm 1979 (ví dụ GSP). Lần lượt việc MFN có thể được chấp nhận đối vói các liên minh thuế quan và các khu vực thương mại tự do (Điều XXIV của GATT 1994) hoặc vì sự hội nhập kinh tế (Điều V, GATS). Dưới đây sẽ giải thích cụ thể hơn.

Một nguyên tắc then chốt khác của GATT, như đã ghi trong Điều III, là một khi ở trong biên giói, hàng hoá sẽ nhận được đối xử quốc gia (NT) giống như đối với hàng hoá nội địa khác, kể cả liên quan đến mức thuế nội địa hoặc áp dụng các quy định của quốc gia. Hơn nữa, nguyên tắc này được mở rộng sang các lĩnh vực “mới” như dịch vụ, và một số ngoại lệ trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS). Tính có thể dự đoân trước và tính minh bạch là những tấc động chính của hệ thống GATT đối với các thương nhân và doanh nghiệp. Những thoả thuận ký kết và cam kết thông báo dựa vào luật lệ là phương tiện quan trọng bảo đảm rằng các điều kiện và môi trường thương mại sẽ được áp dụng bình đẳng đối với tất cả các Bên tham gia ký kết.

Về nguyên tắc: Không phân biệt đối xử (non-discrimination): theo tinh thần không có sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa của các nước khác nhau. Nguyên tắc này được quy định cụ thể qua "quy tắc tối huệ quốc" và " quy tắc đối xử quốc gia".

  • Quy tắc tối huệ quốc(MFN)với nội dung chủ yếu: yêu cầu mỗi thành viên phải áp dụng các quy tắc thuế quan một cách công bằng cho tất cả các thành viên trong WTO.
  • Quy tắc đối xử quốc gia:Yêu cầu mỗi thành viên WTO phải đối xử các sản phẩm nhập khẩu một cách công bằng như những sản phẩm nội địa của họ một khi sản phẩm nhập khẩu vào bên trong biên giới nước này.

Về nguyên tắc: Bảo hộ thông qua thuế quan: Nguyên tắc quan trọng thứ hai của GATT là mỗi quốc gia thành viên chỉ có thể bảo hộ ngành công nghiệp của nước mình thông qua việc áp dụng thuế quan. Hạn ngạch và các hạn chế định lượng khác bị ngăn cấm áp dụng.

Thứ ba là nguyên tắc minh bạch: Có nghĩa là các quy định của thành viên GATT phải được công bố một cách công khai cho các thành viên.

Ngoài ra còn có một số nguyên tắc về sự miễn trừ cho một số thành viên khỏi việc tuân thủ các nghĩa vụ của GATT chỉ trong những trường hợp đặc biệt đã được quy định cụ thể và không nhằm mục đích" hạn chế trá hình đối với thương mại quốc tế" và "phân biệt đối xử tuỳ tiện và không lý giải được".

3. Sự ra đời của Tổ chức thương mại thế giới (WTO)

Hội nghị Bretton Woods vào năm 1944 đã đề xuất thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) nhằm thiết lập các quy tắc và luật lệ cho thương mại giữa các nước. Hiến chương ITO được nhất trí tại Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Thương mại và Việc làm tại La Habana tháng 3 năm 1948. Tuy nhiên, Thượng nghị viện Hoa Kỳ đã không phê chuẩn hiến chương này. Một số nhà sử học cho rằng sự thất bại đó bắt nguồn từ việc giới doanh nghiệp Hoa Kỳ lo ngại rằng Tổ chức Thương mại Quốc tế có thể được sử dụng để kiểm soát chứ không phải đem lại tự do hoạt động cho các doanh nghiệp lớn của Hoa Kỳ (Lisa Wilkins, 1997).

ITO chết yểu, nhưng hiệp định mà ITO định dựa vào đó để điều chỉnh thương mại quốc tế vẫn tồn tại. Đó là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). GATT đóng vai trò là khung pháp lý chủ yếu của hệ thống thương mại đa phương trong suốt gần 50 năm sau đó. Các nước tham gia GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán, ký kết thêm nhiều thỏa ước thương mại mới. Vòng đám phán thứ tám, Vòng đàm phán Uruguay, kết thúc vào năm 1994 với sự thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thay thế cho GATT. Các nguyên tắc và các hiệp định của GATT được WTO kế thừa, quản lý, và mở rộng. Không giống như GATT chỉ có tính chất của một hiệp ước, WTO là một tổ chức, có cơ cấu tổ chức hoạt động cụ thể. WTO chính thức được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1995.

4. Nguyên tắc của WTO

WTO là thể chế thương mại toàn cầu lớn nhất thế giới hiện nay với 153 thành viên (năm 2010). Có thể nói WTO là một tập hợp tốt nhất và hoàn chỉnh nhất hiện nay các quy định pháp luật trong thương mại làm nền tảng cho hoạt động thương mại toàn cầu. WTO tạo điều kiện để hình thành những chuẩn mực chung trong điều chỉnh và đánh giá các quan hệ thương mại giữa các quốc vốn có rất nhiều điểm khác biệt trong phát triển. Đây là điều kiện thuận lợi để các quốc gia có thể chủ động hội nhập có hiệu quả. WTO là hiện hữu của một nền thương mại tự do, minh bạch và công bằng. Nền thương mại tự do là điều kiện để tạo ra lợi ích lớn nhất cho các quốc gia và nguyên tắc cơ bản chi phối nền thương mại tự do là nguyên tắc lợi thế so sánh. Các loại rào cản thương mại bị loại bỏ để quá trình cạnh tranh diễn ra tự do. Các quy luật của nền thương mại tự do được phát huy tốt đa đặc biệt là quy luật cạnh tranh. Nguồn lực của thế giới được phân bổ và sử dụng có hiệu quả cao nhất.

Để duy trì được nền thương mại tự do đó, cần phải có một hệ thống các nguyên tắc làm nền tảng cho các hoạt động ổn định, lâu dài và tạo căn cứ để buộc các quốc gia thành viên phải tuân theo. Dựa trên các nguyên tắc đã đựoc hình thành, các quốc gia sẽ điều chỉnh, sửa đổi các chính sách, luật pháp và quy định để phù hợp với các nguyên tắc và các cam kết của WTO. Các nguyên tắc kiến tạo thể chế WTO gồm có nguyên tắc nước được ưu đãi nhất (MFN), đối xử quốc gia (NT), có thể dự đoán, thương mại ngày càng tự do hơn thông qua đàm phán và giành ưu đãi đối với các nước đang phát triển. Cùng với các nguyên tắc là một loạt các hiệp định như Hiệp định chung về thương mại và thuế quan, Hiệp định trợ cấp, Hiệp định chống bán phá giá, Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật và vệ sinh, kiểm dịch động thực vật, Hiệp định về mua sắm của chính phủ...Tổng số các Hiệp định này được lưu giữ trong 500 trang cùng với khoảng 23.000 trang các cam kết của các nước thành viên. Đây là một khối lượng đồ sộ các quy định pháp lý và cam kết để bảo vệ cho một nền thương mại tự do, minh bạch và công bằng của toàn thế giới.

Các nguyên tắc của WTO có thể quy về thành 3 nhóm các nguyên tắc lớn là không phân biệt đối xử, minh bạch hoá và có thể dự đoán. Giữa các nguyên tắc này có mối quan hệ qua lại với nhau. Nguyên tắc không phân biệt đói xử yêu cầu các nước thành viên không có sự phân biệt đối xử về thuế quan, hàng rào phi thuế quan, các hàng rào kỹ thuật, vệ sinh, kiểm dịch động thực vật, các quy định về lệ phí, thủ tục... đối với các nước thành viên và giữa hàng hoá, dịch vụ, thể nhân và tự nhiên nhân trong và ngoài nước. Nguyên tắc này còn đòi hỏi các nước phải giành cho nhau những ưu đãi lớn nhất trong các quan hệ thương mại. Sự tốt nhất trong ứng xử sẽ tạo ra kết quả tốt nhất của những giao dịch như là một tất yếu. Đồng thời với nguyên tắc này là nguyên tắc minh bạch hoá yêu cầu các nước phải công khai, minh bạch các loại thủ tục, chính sách và quy định để các nước thành viên biết rõ ràng và cụ thể. loại bỏ tình trạng mập mờ về quy định và thủ tục. Bên cạnh đó, những thay đổi và điều chỉnh về luật pháp, chính sách trong lĩnh vực thương mại cần được thực hiện theo một chiều hướng nhất định mà các nước thành viên đều có thể dự đoán được. Ngoài ra, các nước mở cửa thị trường cho nhau trên nguyên tắc có đi có lại. Đây là nguyên tắc để bảo đảm sự công bằng và cân bằng giữa các quốc gia trong các quan hệ thương mại nhằm giảm thiểu tình trạng những nước lớn về quy mô thương mại, có tiềm lực công nghệ và tài chính lớn có thể gây áp lực đối với các nước có quy mô nhỏ.

5. Kết thúc vấn đề

Tất cả những điều chỉnh chính sách và quy định của các nước vi phạm những nguyên tắc của WTO đều bị buộc phải huỷ bỏ. Trong trường hợp các nước không loại bỏ những quy định trái với các nguyên tắc WTO, các quốc gia thành viên có quyền khởi kiện ra cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO. Những hình thức chế tài nghiêm khắc được áp dụng để buộc quốc gia thành viên phải tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc của WTO như áp dụng thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp (thuế đối kháng), trả đũa thương mại.

Trân trọng!