Mục lục bài viết
1. Định nghĩa
- Có nhiều định nghĩa về nhân cách. Đề tài khoa học thuộc chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX - 07: “Con người Việt nam mục tiêu động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội”, đã quan niệm: Nhân cách là sự phù hợp giữa hệ giá trị, thang đo và th¬ước đo giá trị của cá nhân với xã hội - sự phù hợp càng cao thì nhân cách càng lớn. Điều này có thể suy ra: nhân cách gồm những giá trị xã hội - những điều tốt đẹp được xã hội thừa nhận và người nào cũng có nhân cách chỉ khác nhau ở mức độ phù hợp hệ giá trị, thang đo và thước đo giá trị của cá nhân với xã hội.
Và như vậy suy ra: Nhân cách của người phạm tội thiếu sự phù hợp giữa hệ giá trị, thang đo và th-ước đo giá trị của cá nhân với xã hội; bị "lấn át" bởi tâm lý tội phạm.
“Lấn át” được hiểu:
+ Tâm lý tội phạm chỉ lấn át nhân cách trong tình huống, hoàn cảnh nào đó.
Hiện nay, tội phạm dã man vô nhân tính và bạo hành gia đình xuất phát từ những nguyên nhân “không đáng có” và bột phát tức thì đang có xu hướng tăng nhanh. Một sinh viên vừa trúng tuyển vào ngành kiểm sát, phạm tội giết người. Đối tượng này ở nhờ nhà bác ruột và trong một lần cãi vã đã cầm dao đâm chết con của bác. Hành vi ấy của đối tượng là không thể tha thứ nhưng nguyên nhân sâu xa của hành vi trên là do đối tượng bị ức chế, dồn nén. Những mâu thuẫn giữa đối tượng và gia đình người bác đã tồn tại từ lâu, lần gây án là một lần bột phát. Đôi khi điều kiện sống không tốt lại nảy sinh tâm lý chán đời, hận đời, căm thù số phận nên dễ có nguy cơ phạm tội khi gặp tâm lý kích thích. Vũ Thị Gái phạm tội giết người - trước đó, ngày 12 - 7 - 2008, anh Tặc dùng tay tát vào mặt vợ là Gái khi thấy vợ mình dám cãi mẹ. Đánh xong, anh Tặc bỏ đi học. Giận chồng lâu nay không quan tâm đến mình nên Gái mua kem và bánh mì cho con gái chưa đầy hai tuổi ăn, rồi vơ con dao đâm thẳng vào ngực con. Sau đó, Gái quay dao tự đâm vào bụng mình một nhát rồi lại đâm liên tiếp sáu nhát vào bụng bé. Gái được đưa đi cấp cứu kịp thời nhưng cháu bé thì đã chết. Trần Thị Tý (SN 1971, quê Long Thành, Đồng Nai) nói: Có lẽ bị chồng dọa giết, chèn ép lâu ngày và kinh tế quá khó khăn nên tôi đã nghĩ quẩn- giết chồng. Nhiều vụ đồng giới giết nhau vì trong tình huống không thỏa mãn sinh lý, hay chồng giết vợ chỉ vì không được “quan hệ”.
Cho nên để phòng chống tội phạm cần phải có cơ chế dự báo tình huống và phát hiện sớm hoàn cảnh sống khó khăn, ức chế tâm sinh lý có nguy cơ dễ dẫn con người đến phạm tội.Tổ chức lôi kéo họ trở lại thế cân bằng tâm, sinh lý trước khi họ phạm tội
+ Tâm lý tội phạm lấn át nhân cách có tính chất “thường xuyên”, kiểu lấn át này thường thấy ở kẻ phạm tội tái phạm nhiều lần, có tính chất “chuyên nghiệp”, cuộc sống chủ yếu là hoạt động phạm tội.
2. Phân loại nhân cách của người phạm tội
Cũng có nhiều cách phân loại nhân cách. Quá trình nghiên cứu tâm lý tội phạm của chúng tôi đều chú ý xem xét sự tương tác giữa cá nhân với tình huống, hoàn cảnh - cá nhân với môi trường. Từ "lấn át" như trong định nghĩa về nhân cách cũng thể hiện quan niệm này. Vì vậy, nhân cách được chia thành 3 loại:
- Loại hình nhân cách phạm tội tình huống: Người có nhân cách loại này thư¬ờng có hành vi phạm tội xảy ra trong hoàn cảnh xung đột, hành vi phạm tội xảy ra tựa như kích thích - phản ứng. Loại người có nhân cách này chỉ có vài phẩm chất tâm lý tiêu cực mà trong tình huống nhất định đã thúc đẩy cá nhân phạm tội (phạm tội do thúc đẩy của cảm xúc tình huống ghen tuông; cảm xúc tức giận do thách đố, xúc phạm danh dự của nhau; tâm lý bị đè nén, bức bối vì cuộc sống hiện tại của cá nhân gặp một hiện tượng xã hội không thuận lợi, thậm chí gia tăng sự đè nén, bức bối).
- Loại hình nhân cách phạm tội do pháp luật không nghiêm. Lối sống có những lệch chuẩn của cá nhân trong sự tác động của tình trạng pháp luật không nghiêm đã khiến họ có tâm lý lợi dụng hoàn cảnh để thực hiện hành vi phạm tội.
- Loại hình nhân cách phạm tội có hệ thống: Người có nhân cách loại này, họ không chỉ lợi dụng hoàn cảnh mà còn tạo ra hoàn cảnh, tìm cách vượt qua trở ngại để thực hiện hành vi phạm tội và hành vi phạm tội tựa như trở thành thói quen của họ.
3. Quá trình hình thành và suy thoái nhân cách của người phạm tội
Nhân cách của người phạm tội là kết quả của quá trình hình thành nhân cách có những khiếm khuyết, lệch chuẩn hoặc quá trình suy thoái nhân cách.
- Quá trình hình thành nhân cách có những khiếm khuyết, lệch chuẩn thường gồm các giai đoạn: Sự nhàn rỗi => bỏ nhà đi lang thang (để tìm nguồn vui, a dua theo bạn bè, sợ bố mẹ trừng phạt hoặc thèm khát ở mức độ cao về một sự hấp dẫn nào đó) => tụ tập thành nhóm không chính thức mang tính chất trung tính bề ngoài hoặc nhóm không chính thức tiêu cực (chưa phải là nhóm phạm tội) => trộm cắp vặt hoặc nghiện ma tuý => phạm tội. Khi thấy cá nhân ở giai đoạn nào thì phải có biện pháp khắc phục, nếu không dễ có nguy cơ chuyển nhanh sang giai đoạn sau - càng tiến gần đến phạm tội.
Quá trình hình thành nhân cách có những khiếm khuyết, lệch chuẩn ở trên thường thấy ở thanh, thiếu niên phạm tội. Tuy nhiên, không phải tất cả thanh, thiếu niên phạm tội đều trải qua đầy đủ các giai đoạn trên, có cá nhân chỉ trải qua một vài giai đoạn. Nếu ở cá nhân nào xuất hiện càng nhiều dấu hiệu trên thì càng dễ có nguy cơ cao dẫn tới phạm tội.
3.1 Quy luật của quá trình suy thoái nhân cách
Quy luật thứ 1: sự phát triển tâm lý hành vi tiêu cực theo hướng dao động dần. Ví dụ¬: Sự vi phạm chuẩn mực thông thư¬ờng làm cho những vi phạm chuẩn mực khác dễ dàng hơn theo chiều hướng ngày càng xấu đi.
Quy luật thứ 2: Sự phát triển tâm lý hành vi tiêu cực theo tuyến ứng xử. Ví như: Hành vi trộm cắp vặt mà không phát hiện và xử lý kịp thời, dễ có chiều hướng thực hiện hành vi trộm cắp ngày càng lớn hơn.
III. Một số đặc điểm của nhóm phạm tội
1. Định nghĩa
Hiện nay, các khái niệm như tổ chức tội phạm, tội phạm có tổ chức, phạm tội có tổ chức vẫn còn có nhiều ý kiến chưa thống nhất. Chỉ có khái niệm phạm tội có tổ chức đã được Bộ luật Hình sự nước ta quy định, còn hai khái niệm tổ chức tội phạm, tội phạm có tổ chức chưa được chính thức ghi nhận về mặt pháp lý. Sự không thống nhất về nhận thức này gây nên những khó khăn trở ngại cho việc nghiên cứu phục vụ phòng chống tội phạm.
Trên cơ sở các khái niệm công cụ của tâm lý học, trong đó có khái niệm nhóm của tâm lý học xã hội, tâm lý học tội phạm xác định:
Nhóm phạm tội là tập hợp từ hai ng¬ười trở lên liên kết với nhau để hoạt động phạm tội
Ở Việt Nam, gần đây nhóm phạm tội phát triển và diễn biến phức tạp. Điển hình là nhóm phạm tội: Phúc "Bồ", Khánh "Trắng" ở Hà Nội; Hùng "Bo", Tài "Lừa", Sáu "Râu" Tư Kiệt, Trương Văn Cam tại TP HCM; băng Dung "Hà", Cu Nên ở Hải Phòng; Sơn Điều, Hà Khôi tại Nam Định, Phương hột ở Quảng Ninh,v.v...
Nhóm phạm tội được hình thành, đó là một sự chuyển dịch nguy hiểm trong hoạt động phạm tội. Khi tham gia nhóm phạm tội, cá nhân thành viên sẽ thực hiện được những “kế hoạch hành động” với những phương thức thủ đoạn mà từng cá nhân khi hoạt động đơn lẻ không thể nào thực hiện được; chúng sẽ tiến hành nhiều hoạt động phạm tội nguy hiểm và gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng.
Ngoài hậu quả trên, hàng loạt những vấn đề tiêu cực đã xuất hiện đi kèm theo sự phát sinh, phát triển của các nhóm phạm tội, trước hết đó là tình trạng mất ổn định trong sinh hoạt hàng ngày của quần chúng trước các hiện tượng tiêu cực, tình trạng hoang mang và thái độ thờ ơ trước hành vi phạm tội, không còn tin vào sự công minh và hiệu quả của pháp luật.
Hiện trạng tiêu cực của xã hội được nhân thêm bởi những nhóm phạm tội đủ các kiểu loại. Chúng dùng mọi thủ đoạn để mua chuộc, lôi kéo cán bộ trong hệ thống công quyền bao che cho hoạt động phạm tội của chúng. Nó làm đảo lộn nhiều giá trị truyền thống, thậm trí đảo lộn cả chân lý thông thường; tình trạng trật tự, kỷ cương xã hội có sự nhũng nhiễu và mối quan hệ người - người nhiều khi trở nên dè dặt.
Nhóm phạm tội và đồng phạm là hai khái niệm khác nhau, vì trong đồng phạm có thể có người không phải là thành viên của nhóm; tất cả các thành viên của nhóm có thể không cùng tham gia tất cả các vụ việc phạm tội, nên có người đồng phạm về 1 tội, nhưng có người thì đồng phạm về 2 tội.
2. Đặc điểm của nhóm phạm tội
Nhóm phạm tội mang những đặc điểm chung của nhóm: Nhóm là tập hợp gồm từ hai người trở lên, có mục đích chung, có người đứng đầu, có chuẩn mực - nội quy, quy định đảm bảo cho sự tồn tại của nhóm.
Những đặc điểm chung này của nhóm được thể hiện cụ thể ở nhóm phạm tội:
- Nhóm phạm tội gồm từ hai đối tượng trở lên, nguyên nhân, lý do gia nhập nhóm và mức độ hoạt động phạm tội của các thành viên không hẳn giống nhau => Cần tìm hiểu những vấn đề đó để có biện pháp tác động đấu tranh phù hợp với từng đối tượng.
- Bao giờ cũng có thủ lĩnh. Thủ lĩnh thường là người có mưu mẹo, ít khi "nhúng tay" thực hành tội phạm => Vì vậy trong đấu tranh với nhóm phạm tội cần tránh rút dây, động rừng; phải thu thập được chứng cứ để kết tội được thủ lĩnh.
- Mối quan hệ giữa các thành viên mang tính vụ lợi cá nhân là chủ yếu. Tuy có những quy định, quy ước thành văn hoặc không thành văn thể hiện ở các dạng khác nhau để chúng ràng buộc nhau, đảm bảo cho sự tồn tại, hoạt động của nhóm, nhưng khi quyền lợi cá nhân bị đe dọa thì chúng sẵn sàng gạt bỏ nhau, thậm chí trừ khử nhau => Phải lợi dụng và khoét sâu mâu thuẫn: Trên cơ sở mâu thuẫn đã và đang tồn tại về tình ái, ăn chia, đối xử với nhau,v.v... để gieo rắc sự nghi ngờ của đối tượng về lòng trung thành của đồng bọn, gia tăng mâu thuẫn; tính toán thiệt, hơn làm cho đối tượng nảy sinh suy nghĩ bản thân không có lợi, thậm chí có hại khi không hợp tác với cán bộ điều tra.
- Sự tương tác tâm lý của thủ lĩnh đối với các thành viên và giữa các thành viên với nhau khiến cho tâm lý chần chừ do dự biến mất và sự hung hăng, tàn bạo khi thực hiện hành vi phạm tội gia tăng. Người phạm tội đơn lẻ khi hành động sẽ căng thẳng, đấu tranh quyết liệt; nhưng đối với nhóm phạm tội, việc có nhiều người tham gia, chúng dễ thống nhất quyết định phạm tội, chỉ cần một đối tượng khởi xướng thì lập tức được các đối tượng khác đồng tình hưởng ứng. Vì vậy, phải chia cắt, không cho chúng co cụm "dựa lưng" vào nhau để chống đối các lực lượng chức năng, gây ra những hậu quả phức tạp, khó lường hoặc cần chú ý những tác động giữa chúng có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động đối chất, thực nghiệm điều tra.
3. Phân loại nhóm phạm tội
- Căn cứ vào thời gian tồn tại của nhóm phạm tội, thì nhóm phạm tội chia thành hai loại: nhóm phạm tội tạm thời và nhóm phạm tội ổn định
+ Nhóm phạm tội tạm thời: Nhóm phạm tội tạm thời là nhóm được hình thành theo tình huống và thường bắt nguồn từ nhóm mang tính chất “trung tính bề ngoài" hoặc nhóm bị “tổn thất" các quan hệ xã hội tích cực, do ảnh hưởng của các tác động tiêu cực mà chuyển thành nhóm phạm tội, hoạt động lỏng lẻo phụ thuộc nhiều vào tình huống, dễ bị tan rã khi một tên trong nhóm bị bắt hoặc bị truy đuổi.
+ Nhóm phạm tội ổn định: Nhóm được đặc trưng bởi sự bền vững trong quan hệ giữa các thành viên, bởi sự định hình các phương thức hoạt động phạm tội, phương thức che giấu tội phạm và tồn tại trong thời gian dài.
- Dựa theo tiêu chí về mức độ tổ chức liên kết giữa các thành viên, nhóm phạm tội được chia thành 3 loại:
+ Nhóm phạm tội có tổ chức liên kết đơn giản. Đây là nhóm phạm tội tổ chức thiếu chặt chẽ với số lượng thành viên không nhiều, không có “điều lệ” hoạt động một cách chính thức mà chủ yếu quan hệ với nhau theo quy ước đơn giản; không có sự phân chia thứ bậc một cách rõ ràng, chủ yếu sử dụng bạo lực hoạt động trắng trợn, lỏng lẻo, dễ bị tan rã khi một tên trong nhóm bị bắt hoặc bị truy đuổi hoặc giải tán ngay khi giải quyết xong một “phi vụ”. Từng nhóm loại này có nhiều mục đích khác nhau, nhưng chủ yếu là chiếm đoạt tài sản. Chúng thường là những tên có tiền án tiền sự hoặc tính cách thô bạo côn đồ, trình độ văn hóa thấp, không có công ăn việc làm, hoặc làm lao động đơn giản, mức thu nhập thấp nên bần cùng sinh đạo tặc; một số khác đua đòi, nghiện ngập cờ bạc, ma túy,v.v... Ngay khi chiếm đoạt được sản phẩm chúng thường chia nhau theo “công lao” của mỗi thành viên hoặc sử dụng ngay cho những việc nhất thời: ăn chơi, cờ bạc, chích hút ma túy, chơi số đề, cá cược,v.v...
Tuy có cơ cấu tổ chức liên kết đơn giản nhưng chúng hoạt động trắng trợn và cũng gây ra những tội ác cực kỳ nghiêm trọng: giết người, cướp của, cố ý gây thương tích dẫn tới hậu quả nặng nề. Ví như các đối tượng gây ra vụ bắt cóc nhằm đòi tiền chuộc, nhưng sợ lộ đã giết hại dã man một lúc 5 phu tìm trầm ở Quảng Trị.
+ Loại thứ hai là nhóm phạm tội có tổ chức liên kết ở mức cao hoạt động theo kiểu “xã hội đen”. Đây là nhóm phạm tội hoạt động có tính chất bí mật, khép kín có mục tiêu hoạt động lâu dài, có cơ cấu tổ chức rõ ràng, chặt chẽ, bền vững với hai hoặc ba cấp, thiên về sử dụng bạo lực. Chúng thường tạo vỏ bọc hợp pháp, lợi dụng những cán bộ tha hóa biến chất để thực hiện và che giấu tội phạm hoặc để trốn tránh pháp luật khi cần thiết; gây án một cách kín đáo với nhiều hình thức che đậy khôn khéo.
Cấp cầm đầu có thể là 1 hoặc 2, 3 tên, nhưng thường có một tên đứng đầu mà các đàn em gọi là thủ lĩnh, đại ca, băng trưởng,v.v... là tên có đầu óc tổ chức, có hiểu biết khá rộng (về luật pháp, về xã hội) và mối quan hệ rộng rãi trong xã hội, có quá khứ “oanh liệt” trong giới giang hồ hoặc các "thế giới ngầm". Cấp cầm đầu quyết định mọi hoạt động của tổ chức tội phạm này. Những tên này thường ít trực tiếp tham gia vào việc gây án, mà điều hành qua số chỉ huy. Sự “chỉ đạo” gián tiếp này ngày càng làm cho tên cầm đầu ít có nguy cơ bị sa lưới pháp luật.
Ở cấp chỉ huy, trong nhóm phạm tội lại chia thành nhiều tổ, nhóm nhỏ. Mỗi tổ, nhóm nhỏ lại có 1 hoặc 2 tên chỉ huy do thủ lĩnh trực tiếp chỉ định. Những tên này điều hành các hoạt động cụ thể của các tổ, nhóm nhỏ theo lệnh của “thủ lĩnh” và có trách nhiệm báo cáo cho thủ lĩnh về mọi hoạt động của thành viên trong nhóm, thu tiền kiếm được nộp cho chỉ huy. Trong các tổ chức tội phạm số tiền thu nhập (chúng gọi là trả lương) của cấp chỉ huy rất cao so với cấp tay chân.
Các thành viên của tổ, nhóm nhỏ là những tên trực tiếp thực hành tội phạm, cũng như mọi nhiệm vụ do nhóm trưởng, tổ trưởng giao.
Nhóm phạm tội có tổ chức liên kết ở mức cao hoạt động theo kiểu “xã hội đen” thường hiện diện ở các thành phố và các tỉnh lớn có nền công nghiệp, dịch vụ và du lịch phát triển, những địa bàn có khai thác khoáng sản quý (vàng, đá quý) mà những người lao động tự do ở khắp nơi kéo đến đông để khai thác hoặc làm thuê.
Ở Việt Nam, trong những năm cuối của thế kỷ XX, tội phạm có tổ chức đã phát triển và diễn biến phức tạp. Đặc biệt, loại hình hoạt động theo kiểu "xã hội đen" đã xuất hiện ở một số tỉnh, thành phố. Điển hình là các băng: Phúc "Bồ", Khánh "Trắng" ở Hà Nội; Hùng "Bo", Tài "Lừa", Sáu "Râu" Tư Kiệt, Trương Văn Cam tại TP HCM; băng Dung "Hà" , Cu Nên ở Hải Phòng; băng Sơn Điều, Hà Khôi tại Nam Định...Hầu hết các nhóm này đều núp dưới danh nghĩa các tổ chức doanh nghiệp, đội bốc xếp, kinh doanh khách sạn, nhà hàng,v.v... để hoạt động phạm tội.
+ MAFIA là nhóm phạm tội có tổ chức liên kết ở mức rất cao, mang những đặc điểm như loại nhóm hoạt động xã hội đen, nhưng có đặc điểm khác biệt là thành viên của nó chui sâu leo cao vào bộ máy công quyền.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty luật Minh Khuê