Mục lục bài viết
1. Định giá rừng
Định giá rừng bao gồm các hoạt động nhằm xác định tổng giá trị kinh tế của rừng.
Nguyên tắc định giá rừng được quy định như sau:
- Phù hợp với giá trị lâm sản và giá trị dịch vụ môi trường rừng đang giao dịch trên thị trường tại thời điểm định giá;
- Phù hợp với từng loại rừng gắn với quy định về quyền sử dụng rừng, khả năng sinh lợi và thu nhập từ rừng;
- Bảo đảm công khai, minh bạch, khách quan và khoa học.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định phương pháp định giá rừng; khung giá rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng thuộc sở hữu toàn dân.
UBND cấp tỉnh quyết định khung giá rừng trên địa bàn quản lý.
2. Trường hợp định giá rừng
Trường hợp Nhà nước giao rừng, tổ chức đấu giá quyền sử dụng rừng, cho thuê rừng; tính giá trị rừng khi thực hiện chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Trường hợp Nhà nước thu hồi rừng, thanh lý rừng; xác định giá trị vốn góp; cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn nhà nước.
Trường hợp xác định giá trị phải bồi thường khi có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại đối với rừng; thiệt hại do thiên tai, cháy rừng và các thiệt hại khác đối với rừng; xác định giá trị rừng phục vụ giải quyết tranh chấp liên quan tới rừng.
Trường hợp xác định thuế, phí và lệ phí liên quan đến rừng.
Trường hợp khác theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3.Nguồn tài chính trong lâm nghiệp
Ngân sách nhà nước.
Đầu tư, đóng góp, ủng hộ, tài trợ từ tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.
Thu từ khai thác lâm sản; cho thuê rừng, đất rừng.
Thu từ thực hiện nghĩa vụ nộp tiền trồng rừng thay thế do chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác.
Thu từ dịch vụ môi trường rừng và cho thuê môi trường rừng.
Vốn tín dụng từ tổ chức tài chính trong nước và nước ngoài.
Nguồn tài chính khác theo quy định của pháp luật.
4.Những hoạt động lâm nghiệp được sử dụng ngân sách nhà nước
Căn cứ vào yêu cầu quản lý, phát triển lâm nghiệp và khả năng của ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ, Chính phủ quy định những hoạt động được sử dụng ngân sách nhà nước.
Việc lập, chấp hành, kiểm toán, quyết toán và giám sát ngân sách nhà nước cho lâm nghiệp được thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
5.Chính sách đầu tư bảo vệ và phát triển rừng
Nhà nước có chính sách đầu tư cho các hoạt động sau đây:
- Bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ;
- Bảo vệ và cứu hộ thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm;
- Nghiên cứu, ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quản lý nhà nước về lâm nghiệp;
- Xây dựng khu nghiên cứu phát triển, khu công nghệ cao;
- Đầu tư phương tiện, trang bị, thiết bị nhằm bảo vệ rừng; quan trắc, cảnh báo nguy cơ cháy rừng; xây dựng công trình phòng cháy và chữa cháy rừng; phòng, trừ sinh vật gây hại rừng;
- Xây dựng, nâng cấp, cải tạo kết cấu hạ tầng phục vụ cho bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ.
Nhà nước có chính sách hỗ trợ đầu tư cho các hoạt động sau đây:
- Hoạt động chuyển giao công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, khuyến lâm và cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững;
- Phát triển kết cấu hạ tầng gắn với đầu tư phát triển, kinh doanh rừng sản xuất theo chuỗi giá trị;
- Hợp tác, liên kết bảo vệ và phát triển rừng của đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư gắn với chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới;
- Đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cho chủ rừng;
- Xúc tiến đầu tư, phát triển thị trường, thương mại trong hoạt động lâm nghiệp; mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế về lâm nghiệp.
Nhà nước có chính sách ưu đãi đầu tư cho các hoạt động sau đây:
- Phát triển rừng sản xuất ở những vùng đất trống, đồi núi trọc;
- Trồng rừng gỗ lớn và chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang rừng trồng gỗ lớn; phát triển lâm sản ngoài gỗ;
- Phục hồi rừng tự nhiên;
- Phát triển giống cây lâm nghiệp công nghệ cao.
Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Quỹ bảo vệ và phát triển rừng
Quỹ bảo vệ và phát triển rừng là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách; tổ chức, hoạt động theo loại hình đơn vị sự nghiệp công lập, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập.
Nguyên tắc hoạt động của quỹ bảo vệ và phát triển rừng được quy định như sau:
- Hoạt động không vì mục đích lợi nhuận;
- Chỉ hỗ trợ cho chương trình, dự án hoặc hoạt động phi dự án liên quan đến bảo vệ và phát triển rừng mà ngân sách nhà nước chưa đầu tư hoặc chưa đáp ứng đủ yêu cầu đầu tư;
- Bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả; quản lý, sử dụng đúng mục đích và phù hợp với quy định của pháp luật.
Tổ chức quỹ bảo vệ và phát triển rừng được quy định như sau:
- Quỹ bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành lập ở cấp trung ương;
- Quỹ bảo vệ và phát triển rừng ở cấp tỉnh do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập.
Nguồn tài chính hình thành quỹ bảo vệ và phát triển rừng bao gồm:
- Tài trợ, đóng góp tự nguyện, vốn ủy thác của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài;
- Tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng;
- Tiền trồng rừng thay thế do chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác;
- Các nguồn tài chính hợp pháp khác ngoài ngân sách nhà nước.
Hằng năm, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình quản lý, sử dụng Quỹ bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về tình hình quản lý, sử dụng quỹ bảo vệ và phát triển rừng ở cấp tỉnh.
Chính phủ quy định chi tiết về nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, nguồn tài chính, cơ chế quản lý, sử dụng tài chính của quỹ bảo vệ và phát triển rừng.
Thiếu đồng bộ trong chính sách và phối hợp hiệu quả giữa các ngành. Theo đại diện của chính quyền địa phương tham gia phỏng vấn, mặc dù cần phải hạn chế việc phá rừng và chuyển đổi rừng sang các mục đích khác nhưng các quy định về giá đền bù rừng khi thủy điện lấy đất rừng lại quá thấp nên nhiều thủy điện của tư nhân phát triển ồ ạt và nạn phá rừng diễn ra tại nhiều tỉnh. Tại các tỉnh khảo sát, mặc dù Chi cục kiểm lâm đã công bố giá rừng từ các nghiên cứu định giá rừng của họ, nhưng các bên liên quan không tuân thủ mà cho rằng họ sẽ chỉ thực hiện nếu đơn giá này là do Sở Tài chính quy định. Nhiều đại diện từ chính quyền địa phương đề xuất rằng giá rừng nên để Bộ Tài chính tham mưu, Bộ Nông nghiệp khảo sát thực hiện định hướng cho tỉnh vì các cơ quan của tỉnh chỉ tuân theo quy định về giá của Sở Tài chính và như vậy việc thực hiện chính sách này sẽ hiệu quả hơn. Hơn nữa, theo nhiều người tham gia phỏng vấn việc xử phạt căn cứ vào hành vi, khối lượng vi phạm theo Nghị định 157 là không thỏa đáng nên không có tính răn đe với các đối tượng phá rừng. Tại một số tỉnh khảo sát, cán bộ địa phương đề cập tới rất nhiều khó khăn trong giải quyết bồi thường thiệt hại khi thu hồi rừng do đất rừng được định nghĩa và quản lí bởi hai cơ quan khác nhau (Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Nông nghiệp và PTNT) .
Những hạn chế về phương pháp định giá rừng hiện nay. Các quy định về nguyên tắc và phương pháp định giá các loại rừng chưa rõ ràng, đặc biệt khi xử lý các trường hợp về chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, chuyển nhượng quyền sử dụng rừng, xử lý vi phạm trong công tác quản lý bảo vệ rừng còn gặp nhiều khó khăn. Với phương pháp xác định giá rừng chỉ dựa vào giá trị trực tiếp (lâm sản) thì rừng phòng hộ có giá trị sử dụng thấp hơn rừng sản xuất. Nhiều cán bộ tại các chi cục kiểm lâm tham gia phỏng vấn cho rằng quy định tính giá trị môi trường rừng từ giá trị trực tiếp theo hệ số K (từ 2 – 5) chưa có cơ sở khoa học rõ ràng. Các giá trị cảnh quan, bảo vệ nguồn nước, đa dạng sinh học, vv, cần có một hệ số riêng để áp dụng cho phù hợp với từng giao dịch. Các địa phương cho rằng cần làm rõ những yếu tố đưa vào để định giá rừng và có các hướng dẫn cụ thể hơn. Ngoài ra, về mặt lý thuyết, định giá rừng phải được căn cứ từ chi phí của người sản xuất và lợi ích của người mua. Mức sẵn lòng chi trả của người mua được quyết định bởi nhiều yếu tố, trong đó yếu tố chủ đạo là lợi ích mang lại từ rừng trong khi mức chấp nhận bán của người bán được quyết định bởi chi phí tạo ra rừng. Do vậy, cùng một khu rừng sẽ có giá khác nhau tùy thuộc vào từng loại giao dịch cụ thể nhưng tất cả những điều này chưa thực sự được tính tới trong phương pháp định giá rừng hiện nay. Quy định xác định giá các loại rừng sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng trồng thực tế trên thị trường thực hiện cũng rất khó khăn, vì thị trường giao dịch về rừng hầu như chưa hình thành. Đối với các dự án chuyển đổi mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác, tổ chức, cá nhân phải có trách nhiệm trồng bù rừng hoặc phải nộp vào Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng nhưng thực tế cho thấy quyết định này cũng chỉ dừng lại ở việc xác định chi phí đầu tư để thực hiện trồng và chăm sóc rừng 3 năm đầu không tính toán đầy đủ giá trị rừng. Một vấn đề khó khăn khác là với phương pháp định giá rừng và giá rừng hiện nay, giá đền bù rừng khi chuyển đổi sang xây dựng thủy điện là rất thấp. Khi các cơ quan quản lí thực hiện định giá rừng, giá đền bù đất rừng hiện nay chỉ xác định theo hai giá trị cơ bản là giá trị lâm sản và giá đất gây nhiều bất cập cho các cộng đồng địa phương. Ngoài ra, với các phương pháp định giá rừng hiện nay xu thế quy hoạch chuyển rừng tự nhiên sang rừng trồng ngày càng phổ biến (vd, Thái Nguyên).
Thiếu kinh phí để thực hiện định giá rừng. Mỗi phương pháp định giá rừng hiện nay được đưa ra đều có các ưu và nhược điểm nên cần thiết phải sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để nâng cao độ chính xác. Điều này cũng đồng nghĩa rằng cần phải có một khoản ngân sách tương xứng. Tuy nhiên, tại các tỉnh ngân sách dành cho việc định giá rừng không có hoặc vô cùng hạn hẹp. Ví dụ tại Thanh Hóa, để thực hiện được đầy đủ theo đúng yêu cầu, Chi cục kiểm lâm cần ít nhất 900 triệu để thực hiện định giá rừng. Tuy nhiên, tỉnh chỉ bố trí được số tiền ngân sách là 478 triệu cho việc điều tra, thu thập số liệu.
Thủ tục hành chính mất nhiều thời gian. Quá trình thực hiện định giá rừng và phê duyệt kết quả mất nhiều thời gian (theo các đại điện phỏng vấn mất khoảng 2-3 năm). Thủ tục hành chính chậm dẫn đến khi kết quả định giá rừng được phê duyệt và công bố đã không còn thể hiện đúng giá trị của rừng tại thời điểm ban hành văn bản. Hơn nữa, diện tích rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh có nhiều thay đổi nên giá rừng không chính xác khi chính thức được áp dụng. Một mặt khác, rừng không được định giá trước khi giao nên thiếu cơ sở pháp lý, gây khó khăn trong giải quyết bồi thường thiệt hại khi thu hồi rừng. Thị trường giao dịch là thị trường giao dịch quyền sử dụng rừng hoặc quyền sở hữu rừng nên có sự can thiệp và quản lý của nhà nước chặt chẽ, giá cả và quy mô giao dịch của thị trường phụ thuộc lớn vào các chính sách của nhà nước trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, trong khi giá đất được cập nhật thay đổi hàng năm thì giá rừng nhiều năm vẫn không thay đổi và thiếu sự quan tâm của tỉnh cũng như các bên liên quan trong việc cập nhật và xác định giá trị thực của rừng. Năng lực thực hiện định giá rừng không đồng đều giữa các cấp. Cho tới nay, theo đại diện của chính quyền địa phương tham gia phỏng vấn, cách hiểu về định giá rừng và năng lực thực hiện định giá rừng giữa các cấp là rất khác nhau. Chính sự khác nhau này tạo ra nhiều khó khăn trong việc thực hiện do không có sự đồng bộ và thống nhất trong cách thực hiện. Công khai minh bạch kết quả Định giá rừng. Tại các hội thảo tổ chức tại 2 tỉnh Thái Nguyên và Thanh Hóa, các Sở Ban Ngành đều rất mong muốn nhận được kết quả và các thông tin liên quan đến định giá rừng nhưng cho rằng các thông tin này ít được chia sẻ và chỉ có Sở Nông Nghiệp và Phát Triển nông thôn biết chứ các Sở ban ngành thường không được chia sẻ thông tin cập nhật và đầy đủ dẫn đến việc phối hợp giữa các ban ngành chưa thực sự hiệu quả.