1. Giới thiệu tác giả

Sách "Pháp luật về công vụ và đạo đức công vụ" do GS.TS. Phạm Hồng Thái (Chủ biên).

2. Giới thiệu hình ảnh sách

Sách Pháp luật về công vụ và đạo đức công vụ

Pháp luật về công vụ và đạo đức công vụ

Tác giả: GS.TS. Phạm Hồng Thái (Chủ biên)

Nhà xuất bản: Đại học Quốc gia Hà Nội

3. Tổng quan nội dung sách

Đạo đức công vụ là một dạng cụ thể của đạo đức xã hội, bao gồm những tiêu chuẩn, nguyên tắc quy định hành vi của người thực thi công vụ và quan hệ của họ với công dân, đồng nghiệp và các chủ thể khác trong hoạt động công vụ. Hoạt động công vụ là những hoạt động mang tính quyền lực nhà nước do các chủ thể được Nhà nước ủy quyền thực hiện theo quy định của pháp luật, nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, phục vụ lợi ích của Nhà nước, nhân dân và xã hội. Từ quan niệm trên có thể thấy, mọi chủ thể thực thi công vụ đều là chủ thể thực hiện đạo đức công vụ. Đó là những người được Nhà nước trao cho quyền lực công để thực hiện nhiệm vụ chung, bao gồm cán bộ, công chức, viên chức, người làm việc trong lực lượng vũ trang và người dân thường trong một số trường hợp khẩn cấp, đặc biệt được Nhà nước trao quyền lực công để thực thi nhiệm vụ, vì lợi ích chung của Nhà nước, nhân dân và xã hội.

Đạo đức công vụ là một bộ phận không tách rời của đạo đức cá nhân; theo đó, cùng với việc thực hiện đạo đức công vụ, người thực thi công vụ còn phải nghiêm chỉnh tuân theo các chuẩn mực đạo đức chung của xã hội, gia đình và cộng đồng. Vì vậy, người thực thi công vụ không những phải tuân thủ yêu cầu chuẩn mực trong công việc, mà còn phải là những tấm gương về đạo đức trong đời thường để tạo nên hình ảnh đẹp về đội ngũ những người được trao quyền lực thực hiện công vụ, qua đó tạo niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước, chế độ chính trị và nền công vụ quốc gia. Nếu người thực thi công vụ chỉ chú ý làm đúng những nguyên tắc, chuẩn mực trong hoạt động công vụ mà không thực hành tốt các chuẩn mực đạo đức xã hội nói chung, thì đó chưa phải là người toàn diện trong ứng xử và lối sống. Những người như vậy không thể được coi là thực hiện tốt đạo đức công vụ. 

Đạo đức công vụ còn là một dạng của đạo đức nghề nghiệp, nghĩa là bên cạnh những chuẩn mực đạo đức chung quy định cho tất cả những người thực thi công vụ thì trong mỗi ngành nghề, người thực thi công vụ còn phải tuân theo các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp riêng. Chẳng hạn, những người làm việc trong ngành tư pháp phải tuân theo chuẩn mực “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”; những người làm việc trong ngành hải quan, thuế vụ, tài nguyên môi trường, y tế… đều phải tuân theo chuẩn mực riêng, gắn liền với hoạt động nghề nghiệp của họ. 

Đạo đức công vụ vừa là một phạm trù pháp lý, vừa là một phạm trù đạo đức, vì vậy, thực hiện tốt đạo đức công vụ chính là việc kết hợp nhuần nhuyễn và có hiệu quả mối quan hệ giữa pháp trị và đức trị. Theo quan điểm này, bản thân mỗi người được trao quyền lực công để thực hiện nhiệm vụ chung phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện bản thân để trở thành người có đạo đức tốt, đồng thời pháp luật cũng cần quy định chế tài nghiêm khắc đối với những người vi phạm chuẩn mực đạo đức công vụ nói chung và đạo đức nghề nghiệp nói riêng. 

Về pháp luật, đạo đức, pháp luật công vụ, đạo đức cán bộ, công chức, đạo đức công vụ đã có nhiều những nghiên cứu, nhưng chưa được xem xét một cách riêng rẽ, chưa khám phá một cách đầy đủ, xác đáng về những biểu hiện, quan hệ của chúng. Vì vậy, cần có những nghiên cứu tiếp theo và tiếp cận vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau, góp phần làm đầy lên những nhận thức về pháp luật, đạo đức, pháp luật về công vụ, đạo đức công vụ. Vấn đề về pháp luật công vụ và đạo đức công vụ là những vấn đề rất rộng lớn, do đó Sách “Pháp luật về công vụ và đạo đức công vụ” tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản, chung nhất, có tính phương pháp mà không đi sâu vào nghiên cứu mọi sự biểu hiện của các hiện tượng này.

Cuốn sách được biên soạn với cấu trúc chương mục như sau:

Chương 1: Những triết lý căn bản về pháp luật

1. Các quan điểm khác nhau về pháp luật

2. Những đặc trưng, chức năng, vai trò của pháp luật

3. Sự điều chỉnh của pháp luật đối với quan hệ xã hội

Chương 2: Những triết lý căn bản về đạo đức và mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức

1. Những triết lý căn bản về đạo đức

2. Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức

Chương 3: Pháp luật về công vụ

1. Về công vụ

2. Pháp luật về công vụ Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử

Chương 4: Đạo đức cán bộ, công chức và đạo đức công vụ

1. Đạo đức cán bộ, công chức

2. Đạo đức công vụ của cán bộ, công chức

Chương 5: Sự điều chỉnh của pháp luật về đạo đức công vụ

1. Sự cần thiết điều chỉnh đạo đức công vụ bằng pháp luật

2. Cấp độ điều chỉnh của pháp luật đối với đạo đức công vụ

3. Phát huy vai trò của pháp luật và đạo đức công vụ hướng tới một nền công vụ phục vụ nhân dân ở nước ta hiện nay

4. Đánh giá bạn đọc

Cuốn sách "Pháp luật về công vụ và đạo đức công vụ" được biên soạn, giới thiệu tới người đọc những nội dung cơ bản nhất về pháp luật công vụ và đạo đức công vụ: Những triết lý căn bản về đạo đức và mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức; Pháp luật về công vụ; Đạo đức cán bộ, công chức và đạo đức công vụ; Sự điều chỉnh của pháp luật về đạo đức công vụ. 

Cuốn sách giúp bạn đọc tiếp cận được những vấn đề căn bản nhất về công vụ và đạo đức công vụ ở nước ta. Cuốn sách không chỉ có giá trị về mặt khoa học pháp lý mà còn có giá trị thực tiễn trong việc xây dựng pháp luật và cơ chế đảm bảo tuân thủ đạo đức công vụ hiệu quả hơn trên thực tế.

5. Kết luận

Hy vọng những chia sẻ trên đây của chúng tôi sẽ là một nguồn tư liệu đánh giá chất lượng sách hiệu quả tin cậy của bạn đọc. Nếu thấy chia sẻ của chúng tôi hữu ích, bạn hãy lan tỏa nó đến với nhiều người hơn nhé! Chúc các bạn đọc sách hiệu quả và thu được nhiều thông tin hữu ích từ cuốn sách “"Pháp luật về công vụ và đạo đức công vụ" do GS.TS. Phạm Hồng Thái biên soạn.

Luật Minh Khuê chia sẻ dưới đây nội dung Quan điểm của Đảng và quy định của pháp luật về đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay để bạn đọc tham khảo:

Đại hội XIII của Đảng nêu rõ yêu cầu tu dưỡng đạo đức, thực hành đạo đức công vụ đối với cán bộ: “xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết”. Như vậy, Đảng ta tiếp tục đặt ra yêu cầu đối với những người thực thi công vụ cần có “đức” và “tài”, theo đó “đức” thể hiện ở việc rèn luyện đạo đức xã hội nói chung và đạo đức nghề nghiệp nói riêng; “tài” thể hiện ở kỹ năng nghề nghiệp, chuyên môn, tính sáng tạo trong công việc, năng lực phục vụ nhân dân…

Hiện nay nước ta chưa có luật riêng về đạo đức công vụ, tuy nhiên các quy phạm pháp luật về đạo đức công vụ đã được Nhà nước ban hành lồng ghép trong nhiều văn bản khác nhau như Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi năm 2019), Luật Viên chức năm 2010 (sửa đổi năm 2019), Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018… và các văn bản dưới luật như Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18-9-2020 của Chính phủ về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức, Nghị định số 115/2020/NĐ-CP ngày 25-9-2020 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức; Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01-7-2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng… Tổng hợp các văn bản pháp luật nói trên có thể thấy, hiện nay pháp luật về đạo đức công vụ ở nước ta quy định hai nội dung chính: những chuẩn mực đạo đức chung; các hành vi bị cấm trong hoạt động công vụ.

Về các chuẩn mực chung, pháp luật quy định người thực thi công vụ phải:

Một là, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân;

Hai là, đối xử khách quan, công bằng với mọi người dân;

Ba là, bảo vệ danh dự và lợi ích quốc gia, giữ bí mật trong hoạt động công vụ;

Bốn là, không được làm những việc liên quan đến sản xuất, kinh doanh, công tác nhân sự quy định tại Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Quy định những điều đảng viên không được làm và những việc khác theo quy định của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền. 

Về các hành vi bị cấm trong hoạt động công vụ, người thực thi công vụ không được thực hiện các hành vi sau:

Một là, trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ được giao; gây bè phái, mất đoàn kết; tự ý bỏ việc hoặc tham gia đình công; 

Hai là, sử dụng tài sản của Nhà nước và nhân dân trái pháp luật; 

Ba là, lợi dụng, lạm dụng nhiệm vụ, quyền hạn; sử dụng thông tin liên quan đến công vụ để vụ lợi;

Bốn là, nhận quà tặng tùy tiện.

Riêng đối với vấn đề nhận quà và tặng quà, hiện nay trên thế giới có hai trường phái pháp luật: một là, cấm tuyệt đối như Xingapo, theo đó cấm người thực thi công vụ nhận quà tặng dưới bất cứ hình thức nào: hai là, cấm tương đối, theo đó người thực thi công vụ được nhận quà đến một giá trị nhất định, nếu quá mức quy định thì phải từ chối, trong trường hợp vì lý do lịch sự hoặc tế nhị không thể từ chối thì người nhận quà được quyền nhận, nhưng sau đó phải nộp lại cho cơ quan, đơn vị nơi công tác để xử lý quà tặng theo quy định. Hiện nay, đa số các nước trên thế giới quy định theo hướng này, trong đó có các quốc gia điển hình như Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc…

Pháp luật Việt Nam trước đây quy định tặng quà và nhận quà theo trường phái cấm tương đối, cụ thể là theo Quy định tại Khoản 4 Điều 12 của Quy chế về việc tặng quà, nhận quà và nộp lại quà tặng của cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức ban hành kèm theo Quyết định số 64/2007/QĐ-TTg ngày 10-5-2007 của Thủ tướng Chính phủ, người thực thi công vụ được nhận quà đến 500.000 đồng, nếu quá mức trên phải từ chối nhận. Tuy nhiên, kể từ ngày 01-7-2019, khi Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 có hiệu lực thì quy định về quà tặng của nước ta theo trường phái cấm tuyệt đối, cụ thể là Điều 22 của Luật này quy định như sau:

"1. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có chức vụ, quyền hạn không được sử dụng tài chính công, tài sản công làm quà tặng, trừ trường hợp tặng quà vì mục đích từ thiện, đối ngoại và trong trường hợp cần thiết khác theo quy định của pháp uật.

2. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có chức vụ, quyền hạn không được trực tiếp hoặc gián tiếp nhận quà tặng dưới mọi hình thức của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan đến công việc do mình giải quyết hoặc thuộc phạm vi quản lý của mình”.