1. Sống chung như vợ chồng là hành vi như thế nào?

Theo khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, sống chung như vợ chồng (hay chung sống như vợ chồng) được định nghĩa là việc nam và nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.

Hiện tại, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 chưa cung cấp định nghĩa chi tiết về khái niệm chung sống như vợ chồng. Tuy nhiên, bạn có thể tham khảo mục 3.1 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC, hướng dẫn áp dụng Chương XV "Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình" của Bộ luật hình sự do Bộ Tư pháp, Bộ Công an, TANDTC và Viện KSNDTC ban hành. Theo đó, chung sống như vợ chồng được định nghĩa như sau: Việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình.

Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh thông qua các yếu tố sau:

  • Có con chung.
  • Được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng.
  • Có tài sản chung.
  • Được gia đình, cơ quan, đoàn thể giáo dục chấp nhận và duy trì quan hệ đó.

Thời điểm nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng được xác định là ngày tổ chức lễ cưới hoặc ngày bắt đầu chung sống với nhau mà gia đình (một hoặc cả hai bên) chấp nhận, hoặc ngày bắt đầu chung sống với nhau mà có người khác hoặc tổ chức chứng kiến, hoặc ngày thực tế bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, và cùng nhau xây dựng gia đình.

Theo quy định tại Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, nhà nước nghiêm cấm việc người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác, cũng như việc người chưa có vợ, chưa có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.

 

2. Nộp đơn ly hôn ra tòa đã làm chấm dứt quan hệ vợ chồng hay chưa?

Theo quy định tại khoản 14 Điều 3, khoản 1 Điều 57, và Điều 65 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, quan hệ hôn nhân sẽ chấm dứt từ các thời điểm sau:

- Ngày mà bản án hoặc quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

- Thời điểm một trong hai vợ chồng qua đời.

- Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một trong hai vợ chồng đã qua đời, thì thời điểm chấm dứt quan hệ hôn nhân sẽ được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án hoặc quyết định của Tòa án.

Do đó, chỉ khi một bản án hoặc quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật được ban hành, quan hệ vợ chồng mới chấm dứt. Việc chỉ mới nộp đơn ly hôn chưa đủ để chấm dứt quan hệ hôn nhân. Để được coi là chấm dứt quan hệ vợ chồng, không chỉ đơn thuần là việc nộp đơn ly hôn. Sau khi nộp đơn ly hôn, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án cần xem xét yêu cầu ly hôn để đưa ra quyết định hoặc bản án ly hôn, phụ thuộc vào việc có đủ căn cứ hay không. Như vậy, quan hệ vợ chồng chỉ được coi là chấm dứt khi có bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực. Để Tòa án đưa ra bản án hoặc quyết định ly hôn, hai vợ chồng phải tuân thủ quy trình ly hôn. Hiện nay, quá trình ly hôn có hai hình thức chính: ly hôn đơn phương và ly hôn thuận tình.

 

3. Có vi phạm khi sống chung như vợ chồng với người đã nộp đơn ly hôn rồi?

Tùy thuộc vào tính chất và mức độ, hành vi sống chung như vợ chồng với người đã nộp đơn ly hôn có thể bị xem là vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình. Bởi việc nộp đơn ly hôn chưa phải là căn cứ để xác định mối quan hệ vợ chồng của người nộp đơn đã chấm dứt như đã phân tích ở trên.

Cụ thể, khoản 2 Điều 5 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 nghiêm cấm hành vi sống chung như vợ chồng với người đang có vợ, có chồng. Điều này áp dụng cho trường hợp người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác, hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.

Tùy thuộc vào tình huống cụ thể, hành vi sống chung như vợ chồng với người đã nộp đơn ly hôn có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

 

3.1. Xử phạt hành chính đối với hành vi sống chung như vợ chồng với người đã nộp đơn ly hôn

Theo điểm b và điểm c khoản 1 Điều 59 của Nghị định 82/2020/NĐ-CP, người có hành vi sống chung như vợ chồng với người đã nộp đơn ly hôn có thể bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng. Các hành vi vi phạm bao gồm:

  • Đang có vợ hoặc chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác.
  • Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ.

 

3.2. Xử lý hình sự đối với hành vi sống chung như vợ chồng với người đã nộp đơn ly hôn

Người có hành vi sống chung như vợ chồng với người đã nộp đơn ly hôn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tùy theo từng trường hợp. Một trong hai hoặc cả hai người có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo Điều 182 của Bộ luật Hình sự năm 2015, với các quy định cụ thể như sau:

* Khung hình phạt 1:

Người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác, hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, sẽ bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ từ 3 tháng đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm:

- Gây ra sự chấm dứt quan hệ hôn nhân của một hoặc cả hai bên dẫn đến ly hôn.

- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này và tiếp tục vi phạm.

* Khung hình phạt 2:

Người phạm tội trong một trong các trường hợp sau đây, sẽ bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm:

- Gây ra việc tự tử của vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên.

- Tiếp tục duy trì quan hệ sống chung như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng sau khi đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng.

Như vậy, để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này, cần đáp ứng một trong các điều kiện sau:

- Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây ra hậu quả nghiêm trọng, như làm gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, gây tổn thương cho vợ hoặc chồng, con dẫn đến tự tử và những tác động tương tự.

- Người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về một trong các hành vi được liệt kê trong Điều 147 của Bộ luật hình sự, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là đã bị xử phạt hành chính. Ngoài ra, người đó còn tiếp tục thực hiện hành vi đó hoặc thực hiện một trong các hành vi khác được quy định trong luật.

Trong trường hợp đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng, người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo khoản 2 của Điều 147 của Bộ luật hình sự.

Để tìm hiểu thêm thông tin liên quan, mời quý bạn đọc tham khảo bài viết: Phân tích trường hợp sống chung như vợ chồng trái quy định của pháp luật? 

Trên đây là toàn bộ nội dung bài viết của Luật Minh Khuê, nọi thắc mắc chưa rõ hay có nhu cầu hỗ trợ vấn đề pháp lý khác, quý khách hàng vui lòng liên hệ với Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua số hotline1900.6162 hoặc gửi yêu cầu tư vấn pháp luật trực tuyến qua emaillienhe@luatminhkhue.vn để được hỗ trợ và giải đáp kịp thời. Xin trân trọng cảm ơn quý khách hàng đã quan tâm theo dõi bài viết của Luật Minh Khuê.