Mục lục bài viết
- 1. Khái niệm và đặc điểm thuế giá trị gia tăng
- 1.1. Thuế giá trị gia tăng là gì?
- 1.2. Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng
- 2. Tìm hiểu về cho vay
- 2.1. Đặc điểm của cho vay:
- 2.2. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ cho vay
- 3. Hoạt động cho vay tài sản của doanh nghiệp là gì?
- 4. Thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động cho vay tài sản của doanh nghiệp?
1. Khái niệm và đặc điểm thuế giá trị gia tăng
1.1. Thuế giá trị gia tăng là gì?
Thuế giá trị gia tăng là loại thuế tiêu dùng nhằm động viên một bộ phận thu nhập của người chịu thuế đã sử dụng để mua hàng hóa, nhận dịch vụ.
Theo quy định tại Điều 2 Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008: thuế giá trị gia tăng là thuế thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Như vậy, xét về bản chất, thuế giá trị gia tăng là loại thuế gián thu. Các nhà sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ là người nộp thuế nhưng người tiêu dùng lại thực chất là người chịu thuế thông qua giá cả hàng hóa, dịch vụ. Điều này giúp cho cơ quan quản lý, thu thuế giá trị gia tăng tránh được sự phản ánh gay gắt về thuế. Bên cạnh đó, thuế giá trị gia tăng cũng có thể ảnh hưởng tới sức mua của công chúng do phần thuế này đã được cấu thành trong giá bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng. Những phân tích này cho thấy việc áp dụng thuế giá trị gia tăng tại một quốc gia cần phải cân nhắc tính phù hợp, những yếu tố có ảnh hưởng của loại thuế này cho nền kinh tế.
1.2. Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng
- Thứ nhất, thuế giá trị gia tăng có đối tượng chịu thuế rất rộng. Mọi chủ thể tồn tại trong xã hội, cho dù là cá nhân hay tổ chức, là người nghèo hay người có thu nhập cao đều phải chi trả thu nhập của mình để thụ hưởng kết quả sản xuất kinh doanh tạo ra cho nền kinh tế xã hội. Điều này có nghĩa là, mọi đối tượng trong xã hội đều là chủ thể chịu thuế, chủ thể thực tế phải trả một phần thu nhập do hành vi tiêu dùng. Việc đánh thuế đối với mọi đối tượng trên phạm vi lãnh thổ thể hiện rõ nét sự công bằng của thuế, đồng thời thể hiện thái độ của Nhà nước đối với các loại tiêu dùng trong xã hội.
- Thứ hai, thuế giá trị gia tăng chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ. VIệc đánh thuế chỉ trên phần giá trị tăng thêm mà không phải đối với toàn bộ giá trị hàng hóa dịch vụ làm cho số thuế giá trị gia tăng áp dụng trong mỗi khâu của quá trình lưu thông không gây ra những đột biến về giá cả cho người tiêu dùng. Đặc điểm này của thuế giá trị gia tăng còn yêu cầu pháp luật điều chỉnh phải tìm ra cách thức, phương thức phù hợp, có tính khả thi để xác định chính xác phần giá trị tăng thêm làm căn cứ tính thuế.
- Thứ ba, nếu dựa trên giá mua cuối cùng của hàng hóa dịch vụ, số thuế giá trị gia tăng phải nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau. Đánh thuế ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa ở trong nước, khâu nhập khẩu và lưu thông hàng nhập khẩu nhưng cơ sở xác định số thuế phải nộp chỉ là phần giá trị mới tăng thêm của khâu sau so với khâu trước nên nếu coi giá thanh toán tính đến khi người tiêu dùng thụ hưởng hàng hóa dịch vụ đã xác định trước và không thay đổi, các phần giá trị hàng hóa dịch vụ có bị chia nhỏ và đánh thuế, tổng số thuế giá trị gia tăng phải nộp qua các khâu chính là số thuế cuối cùng tính trên tổng giá trị hàng hóa dịch vụ mà người tiêu dùng phải gánh chịu. Đây vừa là đặc điểm vừa là điểm ưu việt của thuế giá trị gia tăng so với thuế hàng hóa dịch vụ thông thường (thuế doanh thu) mà Việt Nam và nhiều quốc gia đã áp dụng trong giai đoạn trước đây.
2. Tìm hiểu về cho vay
Có thể hiểu, cho vay là việc mọt bên (bên cho vay) cung cấp nguồn tài chính cho đối tượng khác (bên đi vay) trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho bên vay trong một thời hạn thỏa thuận và thường kèm theo lãi suất.
2.1. Đặc điểm của cho vay:
- Thứ nhất, về chủ thể gồm có hai bên tham gia:
- Bên cho vay: đây là bên có tài sản chưa dùng đến, muốn cho người khác sử dụng để thỏa mãn một số lợi ích của mình.
- Bên vay: đây là bên đang cần sử dụng tài sản đó để thỏa mãn nhu cầu của mình (về kinh doanh hoặc vốn).
- Thứ hai, hình thức pháp lý của việc cho vay được thể hiện dưới dạng hợp đồng tín dụng tài sản.
- Thứ ba, sự kiện cho vay phát sinh bởi hai hành vi căn bản là hành vi ứng trước và hành vi hoàn trả một số tiền (hay tài sản) nhất định.
- Thứ tư, việc cho vay bao giờ cũng dựa trên sự tín nhiệm giữa chủ thể là người cho vay đối với người đi vay về khả năng hoàn trả tiền vay.
2.2. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ cho vay
Một hợp đồng cho vay tài sản có thể là hợp đồng song vụ hoặc đơn vụ:
- Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng song vụ nếu có hiệu lực kể từ thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản của hợp đồng, vì theo đó bên cho vay có nghĩa vụ giao tài sản cho bên vay theo đúng thỏa thuận, bên vay phải trả nợ khi đến thời hạn.
- Hợp đồng vay tài sản sẽ là hợp đồng đơn vụ nếu thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được các bên thỏa thuận là thời điểm bên cho vay đã chuyển giao tài sản cho bên vay, vì khi hợp đồng vay có hiệu lực thì bên cho vay không còn nghĩa vụ đối với bên vay.
Như vậy, ở đây chỉ đề cập đến nghĩa vụ của các bên, theo đó, nghĩa vụ của bên này sẽ là quyền của bên kia và ngược lại:
- Nghĩa vụ của bên cho vay (Căn cứ Điều 465 Bộ luật Dân sự năm 2015):
+ Giao tài sản cho bên vay đầy đủ, đúng số lượng, chất lượng vào thời điểm và địa điểm đã thỏa thuận.
+ Bồi thường thiệt hại cho bên vay, nếu bên cho vay biết tài sản không đảm bảo chất lượng mà không báo cho bên vay biết, trừ trường hợp bên vay biết mà vẫn nhận tài sản đó.
+ Không được yêu cầu bên vay trả lại tài sản trước thời hạn, trừ trường hợp quy định tại Điều 470 của Bộ luật Dân sự hoặc luật khác có liên quan quy định khác.
- Nghĩa vụ trả nợ của bên vay (căn cứ ĐIều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015):
+ Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
+ Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý
+ Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
+ Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc có quy định khác.
+ Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:
- Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.
- Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
3. Hoạt động cho vay tài sản của doanh nghiệp là gì?
Theo quy định tại Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015:
Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Do phạm vi áp dụng của Bộ luật Dân sự là các tổ chức, cá nhân cho nên việc một doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng có chức năng cho vay tiền mà có nguồn vốn nhàn rỗi thì vẫn có thể cho tổ chức, cá nhân khác vay tiền.
4. Thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động cho vay tài sản của doanh nghiệp?
Theo Điểm b Khoản 8 Điều 4 Thông tư 219/2013/TT-BTC Hướng dẫn thi hành Luật Thuế giá trị gia tăng và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Thuế giá trị gia tăng, quy định về những đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng, trong đó là:
Hoạt động cho vay riêng lẻ, không phải hoạt động kinh doanh, cung ứng thường xuyên của người nộp thuế không phải là tổ chức tín dụng.
Ví dụ: Công ty cổ phần A có khoản tiền nhàn rỗi, tạm thời chưa phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Công ty cổ phần A ký hợp đồng cho Công ty B vay tiền trong thời hạn 06 tháng và được nhận khoản tiền lãi thì khoản tiền lãi Công ty cổ phần A nhận được thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng.
Như vậy, hoạt động cho vay tài sản của doanh nghiệp sẽ không chịu thuế giá trị gia tăng.
Trên đây là toàn bộ nội dung bài viết của Luật Minh Khuê về vấn đề: thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động cho vay tài sản của doanh nghiệp? Mọi thắc mắc hoặc có nhu cầu hỗ trợ vấn đề pháp lý khác, quý khách hàng vui lòng liên hệ với bộ phận tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của Luật Minh Khuê qua số hotline: 1900.6162 để được hỗ trợ kịp thời. Xin chân thành cảm ơn!
Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại, gọi số: 1900.6162 để được giải đáp.
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật Thuế - Công ty luật Minh Khuê