Mục lục bài viết
- 1. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là gì?
- 2. Quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hiện nay
- 3. Bình luận về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
- 3.1 Phạm tội có tổ chức
- 3.2 Tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”
- 3.3 Tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội”
- 3.4 “Phạm tội có tính chất côn đồ”
- 3.5 Tình tiết “phạm tội vì động cơ đê hèn”
- 3.6 “Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng”
- 3.7 Tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên”
- 3.8 “Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm”
- 3.9 “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên”
- 4. Vì sao cần phải phân biệt các tình tiết tăng nặng TNHS với các tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt?
1. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là gì?
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là các tình tiết làm tăng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, là căn cứ để tăng nặng trách nhiệm hình sự của người phạm tội (trong phạm vi một khung hình phạt) so với các trường hợp phạm tội tương tự khác nhưng không có tình tiết tăng nặng đó.
2. Quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hiện nay
Theo Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 (BLHS 2015) quy định
"Điều 52. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
1. Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
d) Phạm tội có tính chất côn đồ;
đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn;
e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
g) Phạm tội 02 lần trở lên;
h) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
i) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người đủ 70 tuổi trở lên;
k) Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
m) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, tàn ác để phạm tội;
n) Dùng thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội;
o) Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;
p) Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.
2. Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng."
3. Bình luận về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Theo quy định tại Điều 53 BLHS 2015:
3.1 Phạm tội có tổ chức
Theo điểm a khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 được hiểu là hình thức đồng phạm đặc biệt được ghi nhận tại khoản 2 Điều 17 BLHS năm 2015 về đồng phạm. Theo quy định này, đây là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Hình thức đồng phạm này cho phép những người tham gia có khả năng cao để phạm tội liên tục, nhiều lần, gây ra những hậu quả lớn, rất lớn và đặc biệt lớn cho xã hội. Chính vì vậy, đây được coi là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Mức độ tăng nặng phụ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm cũng như quy mô của tội phạm mà những người đó thực hiện, mức độ câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm và vai trò cụ thể của từng người.
3.2 Tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”
Đây là trường hợp phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần và việc phạm tội là nguồn sống, nguồn thu nhập chính của họ. Trường hợp phạm tội này thể hiện tính nguy hiểm cao hơn so với những trường hợp phạm tội thông thường, vì vậy được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Điều này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc xử lí được nêu tại điểm d khoản 1 Điều 3 BLHS năm 2015 là nghiêm trị người phạm tội “có tính chất chuyên nghiệp”.
3.3 Tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội”
Theo điểm c khoản 1, điều 53, BLHS năm 2015 thì đây là tình tiết thể hiện việc sử dụng chức vụ, quyền hạn như một thủ đoạn để người phạm tội thực hiện tội phạm. Trong phạm vi chức vụ, quyền hạn của mình, người phạm tội có được uy tín, sự ảnh hưởng đối với người khác, vì vậy họ đã lợi dụng điều này để thực hiện tội phạm, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân gây ảnh hưởng đến uy tín của người cán bộ, uy tín của Nhà nước. Do đó, trường hợp phạm tội này cần phải được tăng nặng trách nhiệm hình sự, mức độ tăng nặng phụ thuộc vào tầm quan trọng của chức vụ, quyền hạn và mức độ lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó của người phạm tội.
3.4 “Phạm tội có tính chất côn đồ”
Theo điềm d khoản 1, điều 53, BLHS năm 2015 thì được hiểu là trường hợp phạm tội mà hành vi phạm tội thể hiện sự hung hãn, ngang ngược, coi thường pháp luật, coi thường người khác, phạm tội có thể vì những nguyên cớ rất nhỏ nhặt. Ở đây, để áp dụng tình tiết này cần phải dựa vào hành vi của người phạm tội chứ không dựa vào chính bản thân người thực hiện hành vi đó. Nếu người thực hiện hành vi phạm tội vốn là người có thái độ ngang ngược, vô văn hóa, hung hãn, nhưng khi thực hiện hành vi, tính chất ngang ngược, coi thường người khác, coi thường pháp luật không thể hiện rõ thì không có căn cứ để áp dụng tình tiết này. Ngược lại, nếu một người thực hiện hành vi phạm tội vì lí do nhỏ nhặt, không đáng, thể hiện rõ thái độ xấc xược, ngang tàng, hung hãn, coi thường người khác, coi thường pháp luật, thì dù trước đó, trong cuộc sống họ chưa bao giờ thể hiện thái độ này, họ vẫn bị áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất côn đồ”.
3.5 Tình tiết “phạm tội vì động cơ đê hèn”
Được hiều là động cơ phạm tội của người phạm tội ở đây là động cơ mang tính hèn nhát, bội bạc, phản trắc, thể hiện sự ích kỷ. Chẳng hạn như phạm tội đối với người mà mình mang ơn, phạm tội để trốn tránh trách nhiệm mà mình gây ra,…Đây là tình tiết phản ánh mức độ lỗi của người phạm tội và mức độ lỗi trong trường hợp này nghiêm trọng hơn bình thường, do đó, tình tiết này được quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
3.6 “Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng”
Đây là tình tiết được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015. Người phạm tội trong trường hợp này thể hiện ý chí quyết tâm cao khi thực hiện tội phạm thông qua việc họ tìm mọi cách cố gắng khắc phục trở ngại, khó khăn nhằm thực hiện tội phạm đến cùng. Vì vậy, mức độ lỗi của người phạm tội ở đây nghiêm trọng hơn so với những trường hợp thông thường khác. Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào khó khăn mà người phạm tội cần phải khắc phục và mức độ cố gắng, quyết tâm khắc phục trở ngại để thực hiện tội phạm đến cùng của họ.
3.7 Tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên”
Theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 tình tiết này trước đây trong BLHS năm 1999 được ghi nhận là “phạm tội nhiều lần” (điểm g khoản 1 Điều 48). Theo xu hướng cụ thể hóa các quy định trong BLHS, các nhà làm luật đã sửa đổi thành “phạm tội 02 lần trở lên”. Về nội dung, ý nghĩa của tình tiết này hoàn toàn không có sự thay đổi, chỉ khác biệt về cách diễn đạt. Phạm tội từ 02 lần trở lên được hiểu là trước lần phạm tội này, người phạm tội đã thực hiện tội phạm ít nhất một lần trước đó và chưa bị xét xử. Hành vi phạm tội lần này là sự lặp lại tội mà người đó đã phạm trước đó nên thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn trường hợp bình thường. Mức độ tăng nặng của tình tiết này tùy thuộc vào số lần phạm tội trước đó cũng như tính chất mức độ nghiêm trọng của tội phạm mà người đó đã thực hiện trong từng lần.
3.8 “Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm”
Theo điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 đây là tình tiết được tách ra độc lập từ tình tiết được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999. Đây là tình tiết tăng nặng đã được quy định cụ thể tại Điều 53 BLHS năm 2015.
3.9 “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên”
Đây cũng là một tình tiết tăng nặng được sửa đổi về cách diễn đạt theo hướng cụ thể hóa trong BLHS năm 2015. Trước đây, tình tiết này được ghi nhận tại điểm h khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999 là “phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác”. Ở đây, BLHS năm 2015 đã tách tình tiết này thành hai và quy định rất rõ ràng về độ tuổi của trẻ em là dưới 16 tuổi và người già là “đủ 70 tuổi trở lên”. Theo quy định này, các đối tượng bị xâm hại ở đây là đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt, là những người không có, hoặc khả năng tự vệ thấp cần phải được người khác bảo vệ. Hành vi phạm tội ở đây đã xâm phạm đến chính sách bảo vệ của Nhà nước đối với trẻ em, phụ nữ có thai và người cao tuổi. Do vậy, những trường hợp phạm tội đối với các đối tượng đặc biệt này thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn so với các trường hợp khác.
Điểm k khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 ghi nhận tình tiết “phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác”. Đây là tình tiết được tách ra từ điểm h khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999, đồng thời được bổ sung thêm một số đối tượng bị tội phạm xâm hại. Trước đây, chỉ các đối tượng là người “ở trong tình trạng không thể tự vệ được” hoặc người lệ thuộc vào người phạm tội về mặt vật chất, tình thần, công tác hoặc các mặt khác mới được bảo vệ đặc biệt. Hành vi phạm tội đối với những người này được xem là nghiêm trọng hơn những trường hợp bình thường. Người ở trong tình trạng không thể tự vệ được là người do thể trạng yếu đuối hoặc bệnh tật dẫn đến không có khả năng chống lại hành vi phạm tội, không có khả năng tự bảo vệ mình. Người lệ thuộc vào người phạm tội là những người khống chế bởi các mối quan hệ ràng buộc với người phạm tội về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác như tôn giáo, tín ngưỡng,…Hiện nay, trong BLHS năm 2015, các đối tượng được bảo vệ đặc biệt đã được mở rộng thêm, bao gồm cả “người khuyết tật nặng hoặc người khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức”. Các đối tượng này đã được làm rõ trong nội dung các tình tiết giảm nhẹ đã phân tích ở phần trên. Quy định mở rộng đối tượng trong tình tiết này thể hiện chính sách bảo vệ đặc biệt đối với nhóm đối tượng yếu thế, không có hoặc hạn chế khả năng tự vệ.
“Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội” được hiểu là người phạm tội đã lợi dụng thời điểm xã hội đang khó khăn, phức tạp để dễ dàng thực hiện tội phạm. Hoàn cảnh đặc biệt này xảy ra trong xã hội đòi hỏi phải có sự hỗ trợ, khắc phục khó khăn, tuy vậy người phạm tội đã không giúp đỡ khắc phục, còn có hành vi làm tăng thêm những khó khăn đang có của xã hội. Chính vì vậy, hành vi phạm tội có tình tiết này thể hiện tính chất nghiêm trọng cao hơn bình thường.
Tình tiết “dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội”, điểm m khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 đã được bổ sung thêm thủ đoạn “tinh vi” so với quy định tương ứng tại điểm m khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999. Để áp dụng tình tiết này, người phạm tội phải sử dụng thủy đoạn phạm tội “tinh vi, xảo quyệt, tàn ác” khi thực hiện tội phạm. Thủ đoạn phạm tội tinh vi là những mánh khóe, cách thức thực hiện tội phạm phức tạp, kín đáo, khó bị phát hiện. Thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác là việc thực hiện tội phạm với cách thức thâm độc, tàn nhẫn, man rợ, gây đau đớn về thể xác hoặc tinh thần cho chính nạn nhân hoặc người thân của họ. Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào mức độ tinh vi, tàn nhẫn, thâm độc của thủ đoạn mà người phạm tội thực hiện.
Tình tiết “dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 được tách ra từ điểm m khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999. Tình tiết này được áp dụng khi người phạm tội dùng cách thức, công cụ, phương tiện có khả năng đe dọa tính mạng, sức khỏe của nhiều người khi thực hiện tội phạm. Chẳng hạn như dùng chất nổ, chất cháy, ném lựu đạn, dùng súng bắn vào đám đông, bỏ độc vào bể nước sinh hoạt chung,…Tình tiết này chỉ đòi hỏi thủ đoạn, công cụ, phương tiện mà người phạm tội sử dụng, đặt trong điều kiện nhất định có khả năng gây nguy hại cho nhiều người mà không đòi hỏi khả năng đó phải thực sự xảy ra. Mức độ tăng nặng của tình tiết này phụ thuộc vào mức độ nguy hiểm của thủ đoạn, phương tiện mà người phạm tội lựa chọn.
Điểm o khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 quy định tình tiết “xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội”. Để đảm bảo tính thống nhất trong các quy định của BLHS, tình tiết này đã được sửa đổi so với tình tiết “xúi giục người chưa thành niên phạm tội” tại điểm n khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999. Hiện nay, BLHS năm 2015 không sử dụng thuật ngữ “người chưa thành niên” mà thay bằng “người dưới 18 tuổi”. Như vậy, tình tiết tăng nặng này được hiểu là người phạm tội đã có hành vi dụ dỗ, kích động, thúc đẩy người khác là người chưa đủ 18 tuổi thực hiện tội phạm. Người xúi giục ở đây hoàn toàn nhận thức được người đang bị mình xúi giục phạm tội là người chưa đủ 18 tuổi. Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự khi áp dụng tình tiết này phụ thuộc vào số lượng người bị xúi giục, độ tuổi của người bị xúi giục và tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm mà người dưới 18 tuổi thực hiện.
Tình tiết “có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm” là trường hợp người phạm tội đã có hành vi gian dối, quỷ quyệt hoặc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực đối với người khác nhằm đánh lạc hướng điều tra, trốn tránh hoặc che giấu tội phạm. Mức độ gian dối, hung hãn cao, thì mức độ trách nhiệm hình sự càng nặng.
Khoản 2 Điều 52 BLHS năm 2015 quy định “các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng”. Như vậy, những tình tiết đã liệt kê tại khoản 1 Điều 52 chỉ được sử dụng là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt trước đó, Tòa án chưa sử dụng những tình tiết đó để định tội hoặc định khung hình phạt.
4. Vì sao cần phải phân biệt các tình tiết tăng nặng TNHS với các tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt?
Trong quá trình áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, người áp dụng pháp luật phải phân biệt rõ tình tiết định tội, tình tiết định khung hình phạt với các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tình tiết định tội là tình tiết do nhà làm luật quy định dùng để xác định một hành vi cụ thể nào đó có phạm tội (phạm vào một tội danh cụ thể được quy định trong luật hình sự) không? Trong khoa học luật hình sự, tình tiết định tội còn được gọi là tình tiết (dấu hiệu) thuộc cấu thành tội phạm cơ bản.
Tình tiết định khung hình phạt là tình tiết do nhà làm luật quy định trong các khoản (giảm nhẹ hoặc tăng nặng) của điều luật cụ thể, dùng để xác định trường hợp phạm tội cụ thể nào đó có thuộc trường hợp được quy định ở khung hình phạt tăng nặng hoặc khung hình phạt giảm nhẹ của của tội phạm đó không?. Trong khoa học luật hình sự, tình tiết định khung hình phạt còn được gọi là tình tiết (dấu hiệu) thuộc cấu thành tội phạm tăng nặng (khung tăng nặng) và cấu thành tội phạm giảm nhẹ (khung giảm nhẹ).
Thông thường, khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, người áp dụng pháp luật trước hết phải xác định được hành vi của người nào đó có phạm tội không, nếu có thì phạm tội gì, nghĩa là phải định tội (xác định tội danh) đối với hành vi mà một người đã thực hiện. Sau đó, phải xác định xem hành vi phạm tội mà người đó thực hiện thuộc trường hợp được quy định ở khung hình phạt nào (khoản nào của điều luật), nghĩa là phải xác định khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội. Sau khi đã xác định được tội danh, điều khoản áp dụng đối với người phạm tội, người áp dụng pháp luật mới cân nhắc xem mức hình phạt cụ thể cần áp dụng đối với người phạm tội ở mức nào trong khung hình phạt là phù hợp. Việc cân nhắc đến các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự để xác định mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội trong phạm vi một khung ghình phạt (quyết định hình phạt) chỉ được thực hiện sau khi đã định tội (xác định tội danh, điều luật áp dụng), định khung hình phạt (xác định khoản của điều luật áp dụng).