Mục lục bài viết
1. Quy định chung về vùng tiếp giáp lãnh hải
Sự xuất hiện của vùng tiếp giáp lãnh hải là do nhu cầu kiểm soát thuế quan của quốc gia ven biển chống lại các hoạt động buôn lậu trên biển. Theo Công ước luật biển 1982, vùng tiếp giáp lãnh hải nằm trong vùng đặc quyền kinh tế. Nó không phải là vùng biển thuộc chủ quyển quốc gia và cũng không phải là một bộ phận của biển quốc tế mà chỉ là vùng biển quốc gia ven bờ có quyền tài phán trong một số lĩnh vực.
Trong vùng tiếp giáp lãnh hải, quốc gia ven biển có quyền tiến hành các hoạt động kiểm soát nhằm:
- Ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật và về hải quan, thuế, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình;
- Trừng trị các hành vi vi phạm pháp luật nói trên.
Vùng tiếp giáp lãnh hải của Việt Nam được quy định trong Tuyên bố ngày 12.5.1977 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm liền kề vùng lãnh hải. Theo khoản 2 điều 33 Công ước Liên hiệp quốc về luật biển 1982 thì
The contiguous zone may not extend beyond 24 nautical miles from the baselines from which the breadth of the territorial sea is measured.
Bản dịch:
Vùng tiếp giáp lãnh hải không được mở rộng quá 24 hải lý tính từ đường cơ sở mà từ đó bề rộng của lãnh hải được đo đạc.
Vùng tiếp giáp lãnh hải của một quốc gia không phải là vùng mà quốc gia đó có đầy đủ mọi thẩm quyền tài phán. Tuy nhiên, trong vùng tiếp giáp lãnh hải của một quốc gia thì các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia đó có các quyền chủ quyền sau:
1. Ngăn chặn sự vi phạm các luật hay quy định của quốc gia đó về hải quan, tài chính, di cư hay y tế trong phạm vi lãnh thổ hay lãnh hải của mình;
2. Trừng phạt sự vi phạm các luật và quy định trên đây, đã được thực hiện trong phạm vi lãnh thổ hay lãnh hải của quốc gia đó.
(theo: wikipedia.org)
2. Lịch sử hình thành của vùng tiếp giáp lãnh hải
Năm 1730, Anh trở thành quốc gia đầu tiên tuyên bố mở rộng thẩm quyền của mình ra ngoài lãnh hải bằng việc ban hành một đạo luật với tên gọi “Hovering Law”, trong đó cho phép việc bắt giữ và khám xét đối với các tàu thuyền nước ngoài có hành vi buôn lậu. Khu vực hải quan nơi các tàu của Anh được phép tiến hành những hành vi này đã được liên tục mở rộng từ 5 hải lý theo Luật năm 1736 đến 6 hải lý theo Luật năm 1764 và cuối cùng lên tới 15 hải lý theo Luật năm 1802.
Đầu thế kỉ XIX, một tranh chấp giữa Anh và Tây Ban Nha liên quan đến việc bắt giữ một tàu của Anh trong phạm vi khu vực 6 hải lý ngoài lãnh hải nước này được coi là một vụ việc điển hình trong bối cảnh xuất hiện không ít những yêu sách mở rộng thẩm quyền của quốc gia ven biển tại châu Ầu như tuyên bố của Pháp năm 1817 với việc thiết lập một khu vực trung gian 6 hải lý và khu vực hải quan 20km, Bỉ năm 1832 với một khu vực hải quan rộng 10km tính từ bờ biển...
Từ giữa thế kỉ XIX, một loạt các quốc gia Mỹ La tinh cũng đã đưa ra tuyên bố hình thành một vùng biển rộng 12 hải lý nhằm thực thi các quy định về hải quan và bảo vệ an ninh như Chile với quy định trong Bộ luật Dân sự năm 1855, Argentina với Tuyên bố năm 1869 và nhiều quốc gia khác như Ecuador, Honduras và Mexico. Mặc dù vậy, yêu sách rõ ràng nhất về việc thiết lập một vùng biển tiếp giáp xuất phát từ quy định của Mỹ trong Luật thuế năm 1922, theo đó, các tàu thuyền nước ngoài trong phạm vi 12 hải lý từ bờ biển nước này phải tuân theo các quy định của Mỹ về việc cấm rượu mà trước đó đã được ghi nhận trong Luật Volstead năm 1919. Tuy nhiên, trước sự phản đối của nhiều quốc gia, đặc biệt là Anh, từ năm 1924, Mỹ bắt đầu tiến hành đàm phản về các hiệp ước được gọi là hiệp ước về rượu mạnh, trong đỏ, các bên nhất trí về một khu vực kiểm soát rộng 12 hải lý hoặc rộng không quá 1 giờ tàu chạy từ bợ biển của Mỹ để đổi lại việc được nhập khẩu một số lượng rượu mạnh nhất định phục vụ cho thủy thủ đoàn. Điều ước đầu tiên với nội dung như vậy đã được ký với Anh, sau đó là nhiều nước khác ở châu Ầu, cũng như một số nước ở các khu vực khác như Panama, Chile, Nhật Bản. Ngoài ra, một thỏa thuận với nội dung tương tự cũng đã được ký kết giữa các nước ở khu vực Baltic với tên gọi Hiệp ước Helsingfors năm 1925.
Như vậy, cho đến những năm đầu thế kỉ XX vẫn tồn tại ba cách tiếp cận khác nhau về thẩm quyền tài phán đối với tàu thuyền nước ngoài hoạt động bên ngoài phạm vi lãnh hải của quốc gia:
Thứ nhất là những quốc gia phản đối sự tồn tại của thẳm quyền tài phán của quốc gia ven biển đối với những tàu thuyền này, trừ khi có những điều ước quốc tế được ký kết giữa các quốc gia như Anh, Đức, Đan Mạch, Thụy Sỹ, Nhật Bản và Hà Lan;
Thứ hai là các quốc gia đưa ra nhiều khu vực tài phán khác nhau và chiều rộng của những khu vực này phụ thuộc vào mục đích của quốc gia ven biển khi thiết lập chúng như Pháp, Bỉ, Thổ Nhĩ Kỳ…
Thứ ba là các quốc gia yêu cầu thiết lập một khu vực tài phán chỉ liên quan đến vấn đề thuế quan, an ninh và tách biệt rõ ràng với lãnh hải. Trong bối cảnh đó, ý tưởng về việc hình thành vùng tiếp giáp thực chất là sự thỏa hiệp giữa các nhóm quốc gia trên và cũng để giải quyết vấn đề về xác lập chiều rộng lãnh hải giữa một bên là những quốc gia hàng hải mạnh muốn giới hạn các vùng biển của quốc gia trong một phạm vi hẹp với một bên là những quốc gia nhỏ yểu hon muốn mở rộng chủ quyền của mình ra phía biển, vừa để phục vụ cho hoạt động kinh tế vừa tăng cường khả năng phòng thủ trên biển.
Ý tưởng về vùng tiếp giáp lãnh hải đã được nhiều quốc gia đưa ra ngay từ Hội nghị Lahay năm 1930 nhưng không được hiện thực hóa bằng một quy định cụ thể. Trong những-năm giữa Hội nghị Lahay năm 1930 và Hội nghị Giơnevơ năm 1958, vẫn tồn tại sự khác nhau giữa hai nhóm, một bên là những nước không thừa nhận hiệu lực cùa vùng tiếp giáp, điển hình là Anh, và bên kia là các quốc gia đưa ra tuyên bố thiết lập một vùng biển nằm ngoài lãnh hải, tiếp liền lãnh hải với số lượng không ngừng gia tăng nhằm mục đích thực thi thẩm quyền tài phán trên các lĩnh vực thuế quan, an ninh và trong một số trường hợp gồm cả y tế và nhập cư. Trước thực tiễn như vậy, tại Hội nghị của UN về Luật biển lần thứ nhất năm 1958, vấn đề thiết lập vùng tiếp giáp đã chính thức được ghi nhận trong Công ước Giơnevơ 1958 về Lãnh hải và vùng tiếp giáp với một điều khoản cho phép quốc gia ven biển được xác lập một vùng biển tiếp liền lãnh hải với chiều rộng không quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở. Tuy nhiên do Công ước không quy định cụ thể chiều rộng của lãnh hải nên chiều rộng của vùng tiếp giáp cũng không xác định được trên thực tể. Mặt khác, theo quy định của Công ước Giơnevơ 1958 về Lãnh hải và vùng tiếp giáp thì vùng tiếp giáp là một bộ phận của biển cả nên thực chất, các quyền của quốc gia ven biển cũng sẽ rất hạn chế tại vùng biển này. Những điều này đã không làm thỏa mãn được những yêu sách trước đó về việc thiết lập vùng tiếp giáp cũng như không thể giải quyết triệt để bất đồng giữa các quốc gia liên quan đến chiều rộng lãnh hải cũng như việc mở rộng thẩm quyền của quốc gia ven biển ra ngoài biển cả. Hội nghị của UN về Luật biển lần thứ ba với sự ra đời của UNCLOS 1982 chính là sự sửa chữa và bổ sung cho những thiếu hụt này.
3. Khái niệm về vùng tiếp giáp lãnh hải
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm ngoài lãnh hải và tiếp liên với lãnh hải, tại đó quốc gia ven biển thực hiện các thẩm quyền có tính riêng biệt và hạn chế đối với các tàu thuyền nước ngoài.
Theo quy định tại Điều 33 UNCLOS 1982, vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm bên ngoài lãnh hải và có chiều rộng không quá 24 hải lý tính từ đường cơ sở.
Quy định này đã thể hiện một số điểm quan trọng về vùng biển này:
Thứ nhất, về vị trí, vùng tiếp giáp lãnh hải nằm bên ngoài các vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển, có ranh giới trong là đường biên giới quốc gia trên biển và ranh giới ngoài là một đường mà mỗi điểm trên đó cách đường cơ sở khoảng cách tối đa không quá 24 hải lý.
Thứ hai, về chiều rộng, vùng tiếp giáp lãnh hải rộng không quá 24 hải lý tính từ đường cơ sở. Như vậy, thực chất chiều rộng của vùng tiếp giáp sẽ phụ thuộc vào chiều rộng của lãnh hải và tổng chiều rộng của vùng biển này khi hợp với lãnh hải.
Thứ ba, do vị trí tiếp liền với lãnh hải của quốc gia ven biển nên thực chất, vùng tiếp giáp lãnh hải có ý nghĩa như “vùng đệm” giữa vùng biển thuộc lãnh thổ quốc gia và những vùng biển nằm bên ngoài lãnh thổ của quốc gia ven biển. Nói cách khác, đây là vùng biển để quốc gia ven biển thực hiện các quyền kiểm tra, kiểm soát của mình đổi với tàu thuyền nước ngoài trước khi những tàu này đi vào lãnh thổ và trước khi chúng rời khỏi lãnh thổ quốc gia. Do đó, mặc dù cũng là vùng biển thuộc quyền chủ quyền nhưng bản chất của vùng biển này không mang ý nghĩa kinh tế như vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa mà chủ yếu để bảo vệ an ninh, trật tự của quốc gia ven biển.
4. Chế độ pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải
Sự tồn tại của vùng tiếp giáp lãnh hải trong thực tiễn nhằm:
- Ngăn ngừa những vi phạm đối với các luật và quy định hải quan, thuế khoá, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình; . '
- Trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói trên xảy ra trên lẩnh thổ hoặc trong lãnh hải củạ mình.
Các quy định hiện hành cua Luật biển đều khẳng định vùng tiếp giáp lãnh hải không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải và là bộ phận đặc thù của vùng đặc quyền kinh tế. Tại đây, quốc gia ven biển có thẩm quyền đối với các hiên vật có tính .lịch sử và khảo cổ nằm trên đáy biển của vùng tiếp giáp lãnh hải.. Để kiểm soát việc mua bán hiện vật này, quốc gia ven biển có thể coi việc lấy các hiện vật đó từ đáy biển của vùng tiếp giáp lãnh hải mà không có sự thoả thuận của mình là sự vi phặm các luật và quy định của quốc gia ven biển ở trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
4.1 Quyền của quốc gia ven biển
Theo quy định tại Điều 33 UNCLOS 1982, trong vùng tiếp giáp lãnh hải, quyền của quốc gia ven biển tập trung trong hai nội dung:
- Ngăn ngừa các vi phạm đối với các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hoặc nhập cư trong lãnh thổ hay lãnh hải của quốc gia ven biển.
- Trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nêu trên trong lãnh thổ hay lãnh hải của quốc gia ven biển.
Quy định này đã giới hạn rất rõ thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng tiếp giáp lãnh hải của mình trên cả phương diện lĩnh vực và không gian, về lĩnh vực, quốc gia ven biển chỉ có thẩm quyền đối với những vi phạm liên quan đến bốn lĩnh vực: hải quan, thuế khóa, y tế hoặc nhập cư. về không gian, quốc gia ven biển chỉ có thẩm quyền đối với những vi phạm trong các lĩnh vực trên khi vi phạm đó xảy ra trong lãnh thổ hoặc lãnh hải của mình. Tức là về bản chất, quốc gia ven biển không được trao quyền để xử lý những vi phạm xảy ra trong chính vùng tiếp giáp lãnh hải mà thẩm quyền tài phán trong trường hợp này vẫn thuộc về quốc gia mà tàu mang cờ. Điều này thể hiện rất rõ bản chất “vùng đệm” của vùng biển “chuyển tiếp” giữa lãnh thổ quốc gia với vùng lãnh thổ thuộc quyền chủ quyền, là nơi quốc gia ven biển chỉ thực hiện các hoạt động bảo vệ an ninh, trật tự trên lãnh thổ của mình trước khi tàu thuyền nước ngoài đi vào và rời khỏi lãnh thổ quốc gia.
Để thực hiện những quyền được quy định tại Điều 33 UNCLOS 1982, trước hết, quốc gia ven biển có toàn quyền xây dựng và ban hành những luật, quy định điều chỉnh về hải quan, thuế khóa, y tế hoặc nhập cư, đồng thời có quyền áp dụng đầy đủ những quy định này khi tiến hành những hoạt động thuộc thẩm quyền trên vùng tiếp giáp cũng như áp dụng những quy định pháp luật khác có liên quan của quốc gia ven biển khi được dẫn chiếu tới (Chẳng hạn hành vi vi phạm một trong bốn lĩnh vực này nhưng đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì quốc gia ven biển sẽ áp dụng các quy định cùa luật hình sự để xù lý đối với tàu thuyền nước ngoài). Nhằm ngăn ngừa những vi phạm trong bốn lĩnh vực này, quốc gia ven biển có quyền kiểm tra, kiểm soát đối với tàu thuyền nước ngoài trước khi con tàu đi vào lãnh hải và trước khi tàu rời khỏi lãnh hải của quốc gia. Tàu thuyền nước ngoài sẽ phải dừng lại tại một điểm trên vùng tiếp giáp do quốc gia ven biển quy định trước đó hoặc theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền để quốc gia ven biển thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát đối với các lĩnh vực trên. Trong trường hợp có hành vi vi phạm, quốc gia ven biển có quyền áp dụng đầy đủ các quy định của pháp luật nước mình để xử lý đối với con tàu và thành viên trên tàu. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, quốc gia ven biển sẽ chỉ có quyền trừng trị đối với những vi; phạm xảy ra trong lãnh thổ hay lãnh hải của mình chứ không phải đối với những vi phạm xảy ra ngay tại vùng tiếp giáp. Điều này có nghĩa là khi một tàu thuyền nước ngoài vi phạm các quy định thuộc bốn lĩnh vực trên thì dù hành vi đó diễn ra trên nội thủy, lãnh hải hay bất kì bộ phận nào trên lãnh thổ quốc gia thì quốc gia ven biển vẫn có đầy đủ thẩm quyền tài phán đối với con tàu dù nó đã ra đến vùng tiếp giáp. Nhưng nếu tàu thuyền nước ngoài chỉ hoạt động hoàn toàn bên ngoài lãnh thổ quốc gia thì sẽ không thuộc quyền tài phán của quốc gia ven biển trong bốn lĩnh vực này.
Bên cạnh các quyền được quy định tại Điều 33 UNCLOS 1982, quốc gia ven biển còn có đặc quyền đối với các hiện vật lịch sử và khảo cổ nằm trên đáy biển của vùng tiếp giáp lãnh hải. Việc thăm dò, khai thác, mua bán các hiện vật này mà không có sự thỏa thuận với quốc gia ven biển sẽ bị coi là vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển (Điều 303 UNCLOS 1982). Ngoài ra, do vị trí của vùng tiếp giáp là một bộ phận nằm trong vùng đặc quyền kinh tế nên tại đây, quốc gia ven biển cũng được hưởng đầy đủ các quyền mà UNCLOS 1982 quy định cho quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế. Đây là lý do tại sao vùng tiếp giáp lãnh hải được gọi là vùng biển có quy chế “kép”.
4.2 Quyền của quốc gia khác
Do vùng tiếp giáp lãnh hải là một bộ phận nằm trong vùng đặc quyền kinh tế nên tại đây, các quốc gia khác được hưởng những quyền tự do tương tự như trong chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế, bao gồm:
- Tự do hàng hải;
- Tự do hàng không;
- Tự do đặt dây cáp ngầm;
- Quyền tự do sử dụng biển vào những mục đích khác hợp pháp yề mặt quốc tế và gắn liền với việc thực hiện các quyền, tự do này.
Luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập)