Mục lục bài viết
1. Ý thức tôn giáo là gì?
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội bao gồm lễ nghi tôn giáo, tổ chức tôn giáo và ý thức tôn giáo. Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử.
Ý thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực khách quan một cách hư ảo, xuyên tạc.
Về bản chất tôn giáo Ăng ghen viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chỉ phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang những hình thức siêu trần thế.”
2. Nguồn gốc tôn giáo
Tìm nguồn gốc tôn giáo phải tìm trong tồn tại xã hội, trong quan hệ giữa người với tự nhiên và trong các quan hệ xã hội. Để thực hiện quá trình sản xuất, con người phải dùng công cụ và phương tiện do mình làm ra để tác động vào tự nhiên. Khi những công cụ và phương tiện đó còn kém phát triển thì con người tỏ ra yếu đuối, bất lực trước tự nhiên. Chính sự bất lực của con người trước sức mạnh của giới tự nhiên là một nguồn gốc nảy sinh tôn giáo.
Nguồn gốc tôn giáo còn phải tìm trong các quan hệ xã hội của con người trong điều kiện xã hội có áp bức giai cấp và tính tự phát còn là đặc trưng của sự phát triển xã hội. Những qui luật của xã hội biểu hiện như là những lực lượng mù quáng, trói buộc con người và thường xuyên quyết định đến số phận của họ. Những hiện tượng xã hội hiện thực được thần bí hoá và mang dáng vẻ của những lực lượng siêu nhiên. Đó là một trong những nguồn gốc xã hội chủ yếu của tôn giáo. Khi nêu đặc trưng nguồn gốc xã hội trong xã hội tư bản, V.I Lênin đã khẳng định: “Sự sợ hãi đã tạo ra thần linh.”
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, yếu tố quan trọng làm nảy sinh tôn giáo là sự áp bức giai cấp, là chế độ người bóc lột người. Quần chúng bị áp bức buộc phải lao động cho kẻ khác, bị cùng khổ và cô đơn, không tìm ra lối thoát khỏi sự kìm kẹp của ách bóc lột trên trái đất đã tìm lối thoát đó ở trên trời. Vì vậy, sự bất lực của các giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp ở thế giới bên kia, cũng giống như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép mầu. Ý thức tôn giáo với tính cách là hình thái ý thức xã hội bao gồm tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo.
3. Tính chất tự ý thức của tôn giáo
Ý thức nói chung thường được hiểu là cái tinh thần tồn tại trong đầu óc con người chủ thể, phản ánh về thế giới hiện thực tự nhiên và xã hội khách quan ở bên ngoài con người. Cách hiểu này là đúng nhưng không đủ. Bởi vì, đây mới chỉ là cái tinh thần mang nội dung về cái khác chủ thể và ở bên ngoài chủ thể, tức là khách thể. Trong khi đấy, tinh thần còn phản ánh bản thân chủ thể, đó là tinh thần chủ quan. Tương tự, ý thức còn là ý thức của chủ thể về chính mình, tức là tự ý thức. Tinh thần trở thành tinh thần chủ quan và ý thức trở thành tự ý thức khi con người chủ thể phân biệt thế giới hiện thực ban đầu mà họ chỉ mới quan sát một cách trực quan với thế giới hiện thực đã được chính họ cải biến trong thực tế và bằng hoạt động thực tiễn, tức thế giới hiện thực người hóa. Bằng việc nhận thức thế giới hiện thực thứ hai đó, con người đã tìm ra bản thân. Lúc này nó thấy được rằng: thứ nhất, mình là một thực thể vật chất - xã hội có những thuộc tính, hệ thống quan hệ xã hội và năng lực hoạt động thực tiễn hiện thực cụ thể; thứ hai, mình là một chủ thể với tinh thần chủ quan và tự ý thức mang tính độc lập tương đối nhất định. Tôn giáo là một hình thái ý thức nên nó cũng có tính chất tự ý thức như các hình thái ý thức khác.
Nhân tố cơ bản chủ yếu trong hệ thống cấu trúc của ý thức tôn giáo nói chung là niềm tin của tín đồ về Thượng đế và thiên giới. Niềm tin này không được chứng minh bằng thực tiễn. Trong niềm tin ấy, lực lượng siêu trần thế này có sự tồn tại về tinh thần, mà không phải là về vật chất hiện thực khách quan. Nó có bản tính thiện, nhân từ, toàn năng và luôn muốn cứu vớt chúng sinh lao khổ sau khi họ kết thúc cuộc sống trần tục. Chẳng hạn, theo Thiên Chúa giáo thì: “Ban đầu Đức Chúa Trời sáng tạo trời đất… Đức Chúa Trời tạo loài người theo hình ảnh Ngài. Ngài sáng tạo loài người như hình ảnh Đức Chúa Trời. Ngài tạo nên người nam và người nữ. Đó là buổi chiều và buổi sáng ngày thứ sáu”. Gắn liền với niềm tin ấy, tín đồ có tình cảm sùng bái, kính tín đối với lực lượng thánh thần siêu trần thế, có sự tự bằng lòng an ủi đối với hiện tại, kỳ vọng sung sướng đối với tương lai của mình.
Niềm tin và tình cảm tôn giáo tuy ban đầu được nảy sinh trong những điều kiện nhất định của đời sống con người, nhưng về sau chủ yếu được tái lập, củng cố, tạo dựng ra gần như hoàn toàn mới qua lớp lớp thế hệ tín đồ trong hàng nghìn năm nhờ hoạt động của các thiết chế, tổ chức và lực lượng tôn giáo chuyên trách (nhà thờ, tòa thánh, giáo hội, giáo đoàn, chủng viện, Phật viện, trường dòng, giáo sĩ, tăng lữ…). Các cơ sở nghiên cứu, đào tạo của tôn giáo (như trường dòng, Phật viện…) là nơi sản sinh, tạo nguồn nhân lực cao cấp về lý thuyết và tác nghiệp chỉ đạo, quản trị cho những tổ chức và lực lượng tôn giáo chuyên biệt ấy; cung cấp hệ thống giáo lý thần học chủ yếu cho giáo hội và giáo sĩ; đồng thời tuyên truyền (thuyết giảng, hoằng pháp) trực tiếp đến tín đồ, giáo dân.
Hiện tượng tôn giáo (đặc biệt là nhân tố cơ bản chủ yếu của nó, tức niềm tin tôn giáo) đã tồn tại trong lịch sử xã hội loài người hàng nghìn năm. Nhưng chỉ đến C.Mác và Ph.Ăngghen thì bản chất của tôn giáo mới thực sự được làm sáng tỏ. Theo C.Mác: “tôn giáo là sự tự ý thức, tự cảm giác của con người chưa tìm được bản thân mình hoặc đã lại để mất bản thân mình một lần nữa”. Trong luận điểm này của C.Mác có những nội dung cần chú ý như sau.
Thứ nhất, tôn giáo không chỉ là ý thức, cảm giác trực quan của con người chủ thể về thế giới hiện thực tự nhiên và xã hội khách quan bên ngoài (ý thức đó đem lại cho con người nhận thức, kiến thức, hình ảnh về thế giới), mà còn là (và chủ yếu là) tự ý thức, tự cảm giác của con người về chính bản thân mình như một thực thể tự nhiên và xã hội trong sự phân biệt rõ rệt với thế giới xung quanh.
Thứ hai, tự ý thức không phải là cái hoàn toàn mới, khác biệt và tách rời khỏi ý thức của con người. Trái lại, nó gắn liền với bản chất của ý thức, phân biệt ý thức này với tâm lý động vật (tâm lý động vật là lĩnh vực còn hoàn toàn chưa có tự cảm giác, tự tri giác). Nói cách khác, chỉ đến ý thức người mới xuất hiện tự ý thức như là một phương diện không tách rời, một nhân tố hợp thành quan trọng làm nên tính đặc trưng điển hình và bản chất của chính ý thức. Khác với ý thức về thế giới bên ngoài, tự ý thức chủ yếu là hướng nội để phản ánh về chính bản thân chủ thể. Nhưng tự ý thức này của con người chỉ có thể có được trong hoạt động thực tiễn, chứ không phải bằng sự chiêm nghiệm cô lập, đơn độc, trống rỗng, trừu tượng không có đối tượng hiện thực. Cơ chế hình thành tự ý thức được lồng ghép chính trong quá trình hình thành ý thức chứ không phải là tách riêng một cách độc lập tuyệt đối. Thực ra, đây chính là một cơ chế kép của một quá trình hoạt động nhận thức - thực tiễn thống nhất. Cụ thể là, chính trong sự tác động qua lại với thế giới hiện thực mà con người vừa nhận thức được thế giới này, đặc biệt là vừa nhận thức được mình thông qua sự biến đổi tương ứng do chính mình tạo ra trong thế giới ấy. Sự biến đổi này chính là dấu vết hiện thực cụ thể của chủ thể in hình lên thế giới bên ngoài. Khi nhận thức tách bạch, rõ ràng dấu vết ấy so với toàn bộ môi trường bên ngoài nói chung, con người tự ý thức được chính mình, bản chất của mình vừa như là thực thể xã hội hiện thực, vừa như là chủ thể tinh thần, ý thức. Nhưng không phải trong hoạt động thực tiễn con người luôn luôn có tự ý thức, nhận thức được đúng mình, hay tìm được bản thân mình. Nếu họ không nắm được kết quả tác động của chính mình vào thế giới, không có tự do và quyền làm chủ trong hoạt động đó, thì đương nhiên họ không có được cả ý thức lẫn tự ý thức. Trường hợp này xảy ra khi năng lực hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người trước thế giới còn quá thấp kém; hoặc con người mất quyền làm chủ trong những hoạt động ấy của mình, tức là bị áp bức, bóc lột, thống trị bởi các lực lượng tự nhiên và xã hội bên ngoài họ. Tự ý thức tôn giáo không phải là bất kỳ tự ý thức nào nói chung. Nó chỉ là tự ý thức của con người chủ thể chưa tìm được bản thân mình. Tức là con người chủ thể ấy bất lực trước thế giới tự nhiên và xã hội bên ngoài, không hiểu được thế giới đó, bị thế giới ấy chi phối, thống trị trở lại. Do vậy, tự ý thức đó đương nhiên là nghèo nàn, không chính xác và nhìn chung là hư ảo, hoang đường, phi hiện thực.
Thứ ba, ý thức tôn giáo do là tự ý thức, tự cảm giác cho nên chủ yếu chỉ dừng ở trình độ cảm tính (không phải ở trình độ lý tính), vì chủ yếu là tự ý thức (chứ không phải là ý thức nói chung) nên tôn giáo thuộc về kiểu (hay hình thái) ý thức tinh thần thực tiễn. Khi đề cập đến vấn đề rất quan trọng này, C.Mác phân biệt rõ các hình thái ý thức xã hội. Nói cách khác, tôn giáo không phải là hình thái ý thức tinh thần lý luận tách rời hoạt động xã hội - thực tiễn trực tiếp (chẳng hạn như khoa học). Chính vì thế, trong tôn giáo còn bao hàm nhân tố xúc cảm, tình cảm sinh động, mạnh mẽ, mặc dù nội dung phản ánh về cơ bản là không hiện thực. Nhân tố này là ý thức cảm tính hướng vào bên trong, khác với ý thức cảm tính hướng ra bên ngoài, như cảm giác, tri giác. Cái ý thức cảm tính nói chung và thống nhất cả hai mặt, hai nhân tố đó (cảm giác, tri giác khách quan và xúc cảm, tình cảm chủ quan), chính là niềm tin tôn giáo.
Thứ tư, với tôn giáo, thế giới thiên đường thần thánh chi phối thế giới trần tục con người. Bản thân con người thì hoàn toàn phục tùng thần thánh, sẽ được thần thánh cứu vớt lên thiên đường sau khi kết thúc cuộc đời trần thế. Ý thức tôn giáo với nội dung cơ bản như vậy và trong hình thức niềm tin trở thành nhân tố an ủi, xoa dịu con người làm cho con người chấp nhận, chịu đựng một cách nhẫn nhục, kéo dài mọi nỗi đau khổ, bất công, tiêu cực trong đời sống thực tồn của họ.
4. Kết cấu của ý thức tôn giáo
Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng, thói quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo.
Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra và truyền bá trong xã hội. Đứng về mặt lịch sử, tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo là hai giai đoạn phát triển của ý thức tôn giáo, nhưng chúng liên hệ tác động qua lại và bổ sung cho nhau. Tâm lý tôn giáo đem lại cho hệ tư tưởng tôn giáo một tính chất đặc trưng, một sắc thái tình cảm riêng. Hệ tư tưởng tôn giáo “thuyết minh” những hiện tượng tâm lý tôn giáo, khái quát chúng làm cho chúng biến đổi theo chiều hướng nhất định.
5. Vai trò của ý thức tôn giáo
Ý thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội có tính chất tiêu cực. Nó cũng thực hiện chức năng chủ yếu của mình là đền bù hư ảo trong một xã hội cần đến đền bù hư ảo. Điều đó làm cho tôn giáo tồn tại lâu dài và có một vị trí đặc biệt trong xã hội. Chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo nói lên khả năng của tôn giáo có thể bù đắp, bổ sung một cách hư ảo cái hiện thực mà trong đó con người bất lực trước những sức mạnh tự nhiên và những điều kiện khách quan của đời sống xã hội. Những bất lực trong cuộc sống, những mâu thuẫn trong hiện thực được giải quyết một cách hư ảo trong ý thức họ. Vì vậy, thế giới quan tôn giáo không tạo điều kiện cho quá trình nhận thức đúng đắn của con người, hạn chế hiệu quả của hoạt động thực tiễn, cải tạo tự nhiên và xã hội.
Tôn giáo được các giai cấp thống trị sử dụng như một công cụ áp bức tinh thần, một phương tiện củng cố địa vị thống trị của họ.
Chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng, điều kiện tiên quyết để khắc phục tôn giáo như một hình thái ý thức xã hội có tính chất tiêu cực là phải xoá bỏ nguồn gốc xã hội của nó, nghĩa là phải tiến hành một cuộc cách mạng xã hội triệt để nhằm cải tạo của tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Bằng hoạt động tích cực cách mạng của mình, quần chúng không những cải tạo xã hội mà còn cải tạo chính bản thân mình, giải phóng ý thức của mình khỏi những quan niệm sai lầm, kể cả những ảo tưởng tôn giáo.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, cuộc đấu tranh của quần chúng bị bóc lột chống kẻ bóc lột giữ vai trò quyết định trong việc loại bỏ nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Vì vậy, không được coi nhẹ việc tuyên truyền giáo dục tư tưởng duy vật khoa học, đồng thời không ngừng nâng cao nhận thức mọi mặt của quần chúng.
Dựa trên những quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin, Đảng và nhà nước ta luôn thi hành chính sách tôn giáo đúng đắn - chính sách tự do tính ngưỡng tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo của mọi công dân. Không phân biệt về quyền lợi và nghĩa vụ giữa người có tín ngưỡng tôn giáo và người không có tín ngưỡng tôn giáo. Tuyệt đối không xâm phạm đến tình cảm tôn giáo của công dân. Đồng thời nhà nước kiên quyết xử lý theo pháp luật những kẻ âm mưu lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để chống tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết đồng bào theo hoặc không theo một tôn giáo nào trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nghị quyết đại hội lần thứ IX của Đảng đã nêu rõ: “Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Đoàn kết đồng bào các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo, chăm lo phát triển khoa học, văn hóa, nâng cao đời sống của đồng bào. Đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống tốt đời, đẹp đạo”, phát huy những giá trị tốt đẹp và văn hóa đạo đức tôn giáo, từng bước hoàn thiện pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo. Nghiêm cấm sử dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.”
Tài liệu tham khảo
- Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2002), Vấn đề về tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng cộng Sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Hồng Dương (2004), Tôn giáo trong mối quan hệ văn hóa và phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Nguyễn Hồng Dương, Phùng Đạt Văn (Chủ biên) (2009), Tín ngưỡng tôn giáo và xã hội dân gian, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
- Tổng hội Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (2002), Kinh Thánh: Cựu ước và Tân ước, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
- Đặng Nghiêm Vạn (2005), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.