Mục lục bài viết
1. Khái quát chung về án lệ 64/2023/AL
Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 15/2022/HS-GĐT của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 7, 8, 12, 13 và 14 phần “Nhận định của Tòa án”.
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ 1: Bị cáo lên kế hoạch, chuẩn bị các công cụ, phương tiện phạm tội để bắt cóc bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản nhưng chưa chiếm đoạt được tài sản.
- Giải pháp pháp lý 1: Trường hợp này, bị cáo phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản”. Tòa án phải căn cứ vào giá trị tài sản bị cáo định chiếm đoạt để định khung hình phạt.
- Tình huống án lệ 2: Trong số các bị cáo có bị cáo là người cầm đầu, khởi xướng, trực tiếp rủ các bị cáo khác tham gia việc bắt giữ bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản, lên kế hoạch, phân công nhiệm vụ cho các bị cáo khác; giữa các bị cáo có sự cấu kết chặt chẽ, thực hiện hành vi nhất quán theo sự chỉ đạo của bị cáo cầm đầu.
- Giải pháp pháp lý 2: Trường hợp này, các bị cáo phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” với tình tiết định khung tăng nặng “có tổ chức” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
2. Tóm tắt nội dung vụ án trong án lệ 64/2023/AL
Trần Văn N cho anh Lưu Mạnh T vay 150.000.000 đồng nhưng đòi nợ nhiều lần anh T không trả và bỏ trốn. N mượn tài khoản Zalo của Nguyễn Diệu L, mạo danh L để kết bạn, nói chuyện và hẹn anh T đi chơi ở huyện A, tỉnh Vĩnh Phúc vào chiều ngày 15/01/2019.
Ngày 12/01/2019, N rủ L, Nguyễn Quang T1, Nguyễn Văn Đ, Phan Văn Q tham gia bắt giữ anh T để đòi nợ. N chuẩn bị 03 gậy rút, 01 bình xịt hơi cay, 01 bật lửa điện và 01 còng số 8. Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 15/01/2019, N bảo Đ thuê xe taxi của anh Trịnh Anh T2 để chở N, L, Đ, Q, T1 ra sân bay Nội Bài. Trên xe, N bàn bạc cách thức bắt giữ anh T với L, Đ, Q và T1 nên anh T2 biết rõ việc các đối tượng trên đến sân bay bắt giữ anh T để đòi nợ.
Khoảng 19 giờ 20 phút ngày 15/01/2019, L đón anh T. T2 chở N, Đ, Q, T1 đi theo sau. Trên xe, N đưa cho Đ và T1 mỗi người 01 gậy rút, đưa cho Q 01 bình xịt hơi cay. Đi được khoảng 15 km thì xe taxi chở L và anh T dừng lại, xe của anh T2 dừng phía sau. N, Q, Đ, T1 xuống xe và chạy sang xe taxi của anh T. T1 đưa L sang xe của T2. N mở cửa sau bên trái, Đ mở cửa sau bên phải, Q mở cửa trước ghế phụ xe taxi của anh T và xịt hơi cay vào mặt anh T. N và Đ dùng gậy đánh anh T, N và Q dùng tay đấm vào mặt anh T đến khi anh T xin trả tiền nợ thì N, Q, Đ mới dừng lại. N và Đ giữ tay anh T, N đưa còng số 8 để Đ khóa một đầu vào tay phải của anh T, một đầu khóa vào gầm ghế lái. Đ lấy áo trùm đầu anh T và yêu cầu lái xe đi về hướng Bắc Ninh.
Đến Bắc Ninh, N bảo T1 đưa anh T về giữ tại kho tập kết phế liệu của T1 một hôm. Q kiểm tra ví của anh T và giữ lại ví, thẻ ATM, CMND, còn số tiền 2.700.000 đồng Q trả lại cho anh T. Q dùng còng số 8 khóa tay anh T, dùng dây trói 2 tay anh T ra phía sau, dùng băng dính quấn vào tay, bịt miệng anh T.
Khoảng 13 giờ cùng ngày, Đ gọi anh T2 đến nhà kho đón Đ. N dùng tay đấm vào mắt phải của anh T, đưa điện thoại bắt anh T gọi về nhà, yêu cầu gia đình chuyển 150.000.000 đồng vào tài khoản của anh T.
Anh T gọi cho vợ cũ là chị Đàm Thị Phương L1, do đã ly hôn nên chị L1 không làm theo lời anh T.
Anh T gọi cho cô ruột là bà Lưu Thị L2. Bà L2 đến nhà thông báo nhưng bố mẹ anh T không có tiền gửi.
Anh T gọi cho bạn là Hoàng Thị L3, nhờ chị L3 chuyển tiền để anh được thả về. Khoảng 14 giờ ngày 16/01/2019, không thấy người nhà anh T chuyển tiền nên Q dùng điếu cày đánh anh T. N cầm bình cứu hỏa ném về phía anh T, dùng chân đạp anh T.
Tối cùng ngày, L thuê taxi về Hà Nội; N mượn xe ô tô cùng Đ, T đưa anh T về phòng trọ của Q. Q lấy dây xích trói anh T vào chân giường. Q giữ anh T từ ngày 17/01/2019 đến sáng ngày 18/01/2019.
Anh T nhờ N chụp ảnh anh T bị đánh và trói gửi cho chị Hoàng Thị L3 và gọi cho chị Lưu Thị H (chị họ của anh T) để gia đình anh T tin và chuyển tiền vào tài khoản của anh T để trả nợ cho N.
N bảo anh T nói với chị H, nếu không chuyển tiền trả nợ thì N chặt tay anh T nên chị H đồng ý lo tiền chuộc, trả nợ cho anh T.
Khoảng 01 giờ ngày 19/01/2019, T2 chở Q, Đ, anh T ra nghĩa trang thôn X, xã Y, huyện P. Q và Đ dọa đốt anh T. Sau đó, T2 lái xe chở Q, Đ, anh T đến quán karaoke ở thôn A, xã Y1, huyện P. Q đưa anh T lên phòng 701 và trông giữ anh T, Đ và T2 đi về.
Khoảng 08 giờ ngày 19/01/2019, Đ đến thay Q trông giữ anh T. Đ bắt anh T gọi điện về nhà yêu cầu chuyển tiền và kiểm tra tài khoản của anh T thì thấy có 38.928.049 đồng, trong đó: tiền có sẵn trong tài khoản là 23.928.049 đồng, tiền chị Lưu Thị H chuyển hồi 10 giờ 12 phút ngày 19/01/2019 là 10.000.000 đồng và hồi 10 giờ 30 phút ngày 19/01/2019 là 5.000.000 đồng.
Khoảng 11 giờ ngày 19/01/2019, Đ đưa anh T đến trụ sở Công an đầu thú.
Sau đó, T2, N, T1, Đ đi đầu thú. Ngày 19/02/2019, Q ra đầu thú.
3. Nội dung án lệ
"Trong vụ án này, các bị cáo thực hiện hành vi bắt giữ, trói, nhốt, đánh anh Lưu Mạnh T nhằm gây áp lực để T phải gọi cho gia đình, người thân chuyển số tiền 150.000.000 đồng mà anh T đã vay của Trần Văn N vào tài khoản của anh T, trả nợ cho N thì anh T mới được thả về. Như vậy, mục đích của chuỗi hành vi bắt giữ, trói, nhốt, đánh anh T mà các bị cáo thực hiện là nhằm chiếm đoạt số tiền 150.000.000 đồng của gia đình anh T. Việc chị Lưu Thị H (chị họ của anh T) mới chuyển vào tài khoản của anh T 02 lần với tổng số tiền là 15.000.000 đồng và trong tài khoản của anh T có sẵn 23.928.049 đồng nhưng các bị cáo chưa buộc anh T rút số tiền này để đưa cho các bị cáo, không làm thay đổi mục đích chiếm đoạt ban đầu của các bị cáo là 150.000.000 đồng.
Do đó, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với số tiền 150.000.000 đồng là mục đích chiếm đoạt của các bị cáo từ khi bắt đầu việc bắt giữ anh Lưu Mạnh T. Các bị cáo phải bị xét xử về tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” với tình tiết định khung hình phạt “chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng” được quy định tại điểm e khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự.”
"Trong vụ án này, bị cáo Trần Văn N là người khởi xướng; trực tiếp rủ các bị cáo khác (Q, Đ, L, T1, T2) tham gia việc bắt giữ anh Lưu Mạnh T nhằm chiếm đoạt số tiền 150.000.000 đồng mà anh T vay của N; trực tiếp chuẩn bị các công cụ, phương tiện phạm tội như còng số 8, dây trói, xịt hơi cay ...; là người lên kế hoạch, phân công nhiệm vụ cho các bị cáo khác từ việc dừng zalo của bị cáo L mạo danh để kết bạn, rủ anh T từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội, chọn địa điểm đón anh T (sân bay Nội Bài), phân công L đi đón anh T, chọn địa điểm, thời gian để xe taxi chở L và anh T phải tạm dừng dọc đường để xe taxi chở N và đồng bọn tiếp cận, bắt giữ anh T, chọn địa điểm nhốt anh T, phân công người trông giữ anh T ... do vậy, N là người tổ chức, cầm đầu, chủ mưu. Các bị cáo khác là người thực hành, giúp sức tích cực cho N trong kế hoạch bắt giữ anh T nhằm gây áp lực để gia đình anh T phải chuyển tiền theo yêu cầu của N vào tài khoản của anh T từ đó chiếm đoạt số tiền này, cấn trừ khoản nợ mà anh T đã vay của N trước đó. Giữa N và các bị cáo khác có sự cấu kết chặt chẽ, các bị cáo khác đều thực hiện nhất quán theo sự chỉ đạo của N. Hành vi bắt giữ, trói, nhốt, đánh anh T nhằm chiếm đoạt số tiền 150.000.000 đồng của gia đình anh T của các bị cáo kéo dài từ ngày 12/01/2019 đến ngày 19/01/2019. Do đó, hành vi của các bị cáo có dấu hiệu của phạm tội “có tổ chức” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự.
" Việc Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xét xử các bị cáo với tình tiết định khung tăng nặng “chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng” ở điểm e khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự mà chưa xem xét tình tiết định khung tăng nặng “có tổ chức” như phân tích ở trên là thiếu sót.
Việc Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị giám đốc thẩm đề nghị áp dụng thêm tình tiết định khung tăng nặng “có tổ chức ” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, cần được chấp nhận.”
Trên đây là nội dung pháp lý được nêu trong bài viết trên. Tham khảo: Án lệ là gì? Quy trình lựa chọn, nguyên tắc áp dụng, bãi bỏ án lệ.
Mọi thắc mắc liên hệ tổng đài 19006162 hoặc email lienhe@luatminhkhue.vn để được giải đáp chi tiết. Trân trọng!