1. Tóm tắt vụ việc
Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP S (Ngân hàng S)
Bị đơn: Công ty cổ phần thương mại và tin học M (Công ty M)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Lê Mậu H
- Bà Nguyễn Thị S
- Ông Trần Trung N
- Bà Lê Thị Hiền L
Ngày 01/10/2013, Ngân hàng S ký Hợp đồng tín dụng ngắn hạn số 85/2013/HĐTDNH-PN/S.NA-ĐL cho Công ty M vay 950.000.000 đồng; Mục đích vay bổ sung vốn kinh doanh máy tính; Thời hạn cho vay 12 tháng.
Theo Khế ước nhận nợ số 01/2013/HĐTDNH-CN/S.NA-ĐL ngày 01/10/2013, Công ty M đã nhận đủ số tiền 950.000.000 đồng từ Ngân hàng TMCP S. Tài sản đảm bảo cho khoản vay của Hợp đồng tín dụng nêu trên là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 08, tờ bản đồ số 43 thuộc khối 2, phường T, thành phố V, tỉnh Nghệ An được UBND thành phố V cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ236181, vào sổ cấp giấy chứng nhận Quyền sử đất số 0080/QSDĐ/326.QĐUB cho ông Lê Mậu H và bà Nguyễn Thị S theo Hợp đồng thế chấp số 97/2013/HĐTC-BTB/S.NA-ĐL ngày 01/10/2013, số công chứng: 2843/2013/VPCCHB, quyển số 06/VPCC/HĐG ngày 02/10/2013 do Văn phòng công chứng Hòa Bình xác lập; Được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất - UBND thành phố V, tỉnh Nghệ An ngày 02/10/2013
Sau khi vay vốn Công ty M chỉ trả được tổng số tiền lãi là: 164.116.513 đồng, sau đó không trả lãi và gốc đến hạn.
Tính đến ngày 30/10/2018, Công ty M còn nợ Ngân hàng S tổng số tiền 1.749.287.234 đồng (trong đó nợ gốc là 950.000.000 đồng, tiền lãi trong hạn 2.074.790 đồng, lãi quá hạn 796.160.696 đồng và phạt chậm trả lãi là 1.051.748 đồng).
Ngân hàng S yêu cầu: Buộc Công ty M phải trả cho Ngân hàng S tổng số tiền 1.748.235.486 đồng (trong đó nợ gốc là 950.000.000 đồng, tiền lãi trong hạn 2.074.790 đồng, lãi quá hạn 796.160.696 đồng) tính đến ngày 30/10/2018 và tiếp tục tính lãi theo lãi suất nợ quá hạn cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.
Bản án sơ thẩm số 33/2018/KDTM-ST ngày 30/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng S.
Ngày 13/11/2018 bà Nguyễn Thị S, ông Lê Mậu H, chị Lê Thị Hiền L, anh Trần Trung N làm đơn kháng cáo.
Ông H, bà S cho rằng: Ông, bà không biết Hợp đồng thế chấp số 97/2013/HĐTC-BTB/S.NA.ĐL giữa Ngân hàng S và Công ty M thế chấp vay bao nhiêu tiền; đất của ông, bà là đất qui hoạch nhưng Ngân hàng S đã thẩm định nâng giá trị tài sản đảm bảo lên để cho vay quá số tiền quy định. Trong quá trình ký hồ sơ thế chấp, bà S đau đầu nên bỏ về, không ký hết hồ sơ thế chấp nên Hợp đồng đó không đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
Kháng cáo của chị L đề nghị tuyên bố hợp đồng thế chấp số 97/2013/HĐTC-BTB/S.NA.ĐL ngày 01/10/2013 giữa Ngân hàng S và Công ty S là vô hiệu, vì trên mảnh đất thế chấp đó có tài sản của chị đã được bố mẹ cho và chị làm nhà sinh sống trên mảnh đất đó từ năm 2008, khi ông H, bà S ký hợp đồng thế chấp chị không được biết, và cũng không được tham gia ký hợp đồng đó; Ngân hàng đã thẩm định nâng giá trị tài sản bảo đảm lên để cho vay quá số tiền quy định, lỗi đó thuộc về Ngân hàng.
Kháng cáo của anh Trần Trung N có nội dung: Ngân hàng đã thẩm định nâng giá trị tài sản bảo đảm lên để cho vay quá số tiền quy định, lỗi đó thuộc về Ngân hàng.
2. Nhận định của Tòa án
Về nội dung kháng cáo:
- Bà Nguyễn Thị S cho rằng bà không biết hợp đồng thế chấp số 97/2013/HĐTC-BTB/S.NA.ĐL ngày 01/10/2013 giữa Ngân hàng và Công ty M thế chấp vay bao nhiêu tiền. Xét thấy: Trong hợp đồng tín dụng ngắn hạn số 85/2014/HĐTDNH.PN/SHS.NA-ĐL được ký kết ngày 01/10/2013 giữa Ngân hàng và công ty M, thể hiện Ngân hàng đã cho Công ty M vay số tiền 950.000.000đ và Công ty M cũng duy nhất chỉ vay khoản tiền 950.000.000đ, anh Trần Trung N cũng đã thừa nhận khoản vay này.
Tài sản đảm bảo cho khoản vay là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sử dụng của ông Lê Mậu H và bà Nguyễn Thị S, thông qua hợp đồng thế chấp số 97/2013/HĐTC- BTB/S.NA.ĐL ngày 01/10/2013, đã được Văn phòng công chứng xác lập và đăng ký giao dịch bảo đảm hợp lệ theo qui định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo pháp luật của Công ty cũng đã thừa nhận khoản nợ và thừa nhận ký Hợp đồng thế chấp tài sản và đề nghị Ngân hàng cho kéo dài thời gian trả nợ, không có tranh chấp về số tiền Công ty M đã vay của Ngân hàng. Như vậy, ông bà đã biết rõ tài sản là Quyền sử dụng đất và tài sản liên quan trên đất của ông bà dùng để đảm bảo cho khoản vay 950.000.000đ của Công ty M.
- Xét nội dung kháng cáo của Bà S cho rằng Ngân hàng đã nâng giá trị tài sản là Quyền sử dụng đất và tài sản liên quan trên đất để cho công ty M vay quá số tiền so với giá trị thực của tài sản. Khi Ngân hàng thẩm định, định giá tài sản bà cũng đã được tham gia và biết kết quả định giá tài sản, không có ý kiến phản đối và bà đã đồng ý ký vào biên bản định giá với kết quả định giá của Ngân hàng. Phía Ngân hàng đã thực hiện cho vay theo quy định (cho vay không quá 80% của giá trị định giá tài sản).
- Xét kháng cáo của chị Lê Thị Hiền L cho rằng mảnh đất đã được UBND thành phố V cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0080/QSDĐ/326.QĐUB cấp cho ông Lê Mậu H và bà Nguyễn Thị S. Theo chị bố mẹ chị là ông H, bà S đã cho chị và chị đã xây nhà sinh sống từ năm 2008, nhưng khi đưa tài sản là quyền sử dụng đất vào thế chấp chị lại không được tham gia ký Hợp đồng thế chấp, bảo lãnh cho Công ty M vay vốn tại Ngân hàng. Thấy rằng: Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án sơ thẩm, cũng như tại cấp phúc thẩm chị không cung cấp được các giấy tờ cần thiết để chứng minh là ông H, bà S đã cho chị Quyền sử dụng đất nói trên.
Tuy trên mảnh đất đó, khi đưa vào thế chấp để đảm bảo cho khoản vay 950.000.000đ của công ty M có nhà cấp 4 của chị, với diện tích 66,87m2 xây dựng năm 2008. Ngôi nhà này được xây dựng trước khi thế chấp tài sản nhưng không đưa vào thế chấp và không có ý kiến của chủ sở hữu ngôi nhà là ông Trần Trung N và bà Lê Thị Hiền L.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà S, chị L thừa nhận gia đình chưa tách bìa đỏ cho chị L.
Theo Án lệ số 11/2017/AL về công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản không thuộc Sở hữu của bên thế chấp, nếu trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật... ... Nếu bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác không phải là người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng).
Tại phiên tòa sơ thẩm, Đại diện Ngân hàng, anh Trần Trung N và chị Lê Thị Hiền L cũng đã thỏa thuận: Nếu phải xử lý bán tài sản thế chấp để trả nợ thì Ngân hàng sẽ trả lại giá trị của ngôi nhà đã được định giá là 75.456.108 đồng cho bà Lê Thị Hiền L.
- Về nội dung kháng cáo của chị L cho rằng Ngân hàng đã nâng giá trị tài sản thế chấp lên để cho công ty M vay quá số tiền là không có cơ sở. Vì khi Ngân hàng định giá tài sản, chủ sở hữu là ông H, bà S cũng đã biết về giá trị tài sản khi định giá và đã ký đồng ý ký vào biên bản định giá .
3. Quyết định của Tòa án
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, không chấp nhận nội dung kháng cáo của bà Nguyễn Thị S, chị Lê Thị Hiền L. Giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm. - Đình chỉ xét xử nội dung kháng cáo của ông Lê Mậu H và anh Trần Trung N.
Trên đây là các nội dung pháp lý được nêu trong bài viết trên. Tham khảo: Thẩm quyền tranh chấp thương mại của trọng tài thương mại.
Mọi thắc mắc liên hệ đầu số tổng đài 19006162 hoặc email lienhe@luatminhkhue.vn để được giải đáp chi tiết.
Trân trọng