1. Nội dung vụ án trong Bản án 84/2017/KDTM-PT

Theo Đơn yêu cầu công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài ngày 30/9/2015, Công ty G đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định, Việt Nam công nhận và thi hành phán quyết trọng tài ngày 12/8/2013 của Hội đồng trọng tài Hiệp hội B quốc tế. Phản ánh theo quy định của Công ước New York và Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam, Công ty G yêu cầu Công ty N thanh toán tổng cộng 1.799.911,16 USD và 5.090,00 Bảng Anh. Số tiền này bao gồm tiền xuất hóa đơn từ các hợp đồng cụ thể và các khoản lãi suất tính đến thời điểm nộp đơn, cùng với chi phí trọng tài. Cụ thể:

- Tiền xuất hóa đơn theo Hợp đồng số 658931: 505.294,32 USD, lãi suất 42.673,14 USD.

- Tiền xuất hóa đơn theo Hợp đồng số 659642: 905.759,91 USD, lãi suất 76.493,29 USD.

- Tiền xuất hóa đơn theo Hợp đồng số 669229: 22.332,60 USD, lãi suất 1.886,03 USD.

- Tổng cộng các khoản trên là 1.554.439,29 USD.

- Lãi suất tính đến thời điểm nộp đơn: 245.471,87 USD.

- Chi phí trọng tài: 5.090,00 Bảng Anh.

- Tổng cộng: 1.799.911,16 USD và 5.090,00 Bảng Anh.

Công ty N trong Văn bản giải trình cho biết Hợp đồng số 669229 về mua bán bông ngày 28/11/2011 không tồn tại, không có chữ ký của họ. Họ nhấn mạnh rằng Hợp đồng số 658931 và Hợp đồng số 659642 đã được ký và gửi lại cho Công ty G, nhưng bản gốc không được cung cấp để thực hiện thủ tục mua bán. Công ty N đã yêu cầu nhiều lần bản gốc từ đại diện của Công ty G để thực hiện thủ tục mở L/C tại Ngân hàng, nhưng không thành công. Họ cũng đề cập đến khó khăn trong việc mở L/C do khan hiếm ngoại tệ theo công văn của Ngân hàng.

Công ty N phủ nhận nhận bất kỳ thông báo nào từ Trọng tài Hiệp hội B quốc tế trong khoảng thời gian từ 06/11/2012 đến 12/9/2013 qua hòm thư điện tử của họ. Họ chỉ ra rằng địa chỉ email của họ là N@hn.vnn.vn, không phải C@vietunique.com.vn, và thông báo từ Hiệp hội không chính xác hoặc không được gửi đến đúng địa chỉ. Công ty N cũng nói rằng không có người tên S làm lễ tân tại công ty, và các thủ tục để thực hiện hợp đồng mua bán chưa đầy đủ và thiếu căn cứ. Họ đề xuất Tòa án không công nhận và không thi hành phán quyết của Hiệp hội B quốc tế đối với họ.

Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định trong Quyết định kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2016/QĐKDTM-ST ngày 30/5/2016 đã từ chối đơn yêu cầu của Công ty G, không chấp nhận và không thi hành tại Việt Nam quyết định ngày 12/8/2013 của Hội đồng trọng tài Hiệp hội B quốc tế giải quyết vụ tranh chấp hợp đồng mua bán bông giữa Công ty G và Công ty N.

Tòa án cũng quyết định về lệ phí giải quyết đơn yêu cầu và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Sau đó, vào ngày 07/6/2016, Công ty G đã đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại vụ án và bác bỏ toàn bộ Quyết định không công nhận và không thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài của Hiệp hội B quốc tế.

Công ty G lập luận rằng pháp luật điều chỉnh cho Hợp đồng số 669229 ký ngày 28/11/2011 nên được áp dụng theo pháp luật Anh và không phụ thuộc vào việc Công ty N có ký hay không. Họ cũng chứng minh rằng các thông báo của Hiệp hội B quốc tế đã được gửi đến Công ty N thông qua địa chỉ thư điện tử và hình thức chuyển phát nhanh của một hãng chuyển phát nhanh quốc tế nổi tiếng, được xác nhận là đã giao được cho Công ty N. Công ty G đề xuất rằng việc không thông báo kịp thời và hợp thức về việc chỉ định Trọng tài không đúng là không dựa trên các tình tiết của vụ án.

Tại phiên họp phúc thẩm, đại diện ủy quyền của Công ty G tiếp tục kháng cáo với lý do Tòa sơ thẩm không yêu cầu Công ty N chứng minh việc họ không nhận được thông báo của Trọng tài Hiệp hội B quốc tế theo quy định của pháp luật Anh. Công ty G cho rằng phán quyết của Trọng tài Hiệp hội B quốc tế là không căn cứ và áp đặt, không tuân theo luật Anh về thông báo hợp pháp của văn bản tố tụng.

Ngược lại, đại diện ủy quyền của Công ty N vẫn khẳng định rằng họ không ký Hợp đồng số 669229, và hai hợp đồng khác không có điều khoản về trọng tài. Họ bảo vệ quan điểm rằng Công ty N không nhận được thông báo tố tụng từ Hiệp hội B quốc tế và đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của Công ty G.

Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề xuất giữ nguyên quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định, với lý do là Công ty N không ký kết Hợp đồng số 669229 và không có điều khoản thỏa thuận trọng tài trong hai hợp đồng còn lại. Xác minh tại FedEx chỉ ra một thông báo với tên người nhận là S, nhưng Công ty N phủ nhận có ai tên S làm hành chính tại công ty.

2. Nhận định của Tòa án

Khoản 2 Điều 457 Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2015 quy định rằng Hội đồng không được xét xử lại vụ tranh chấp đã được Trọng tài nước ngoài ra phán quyết, chỉ được kiểm tra, đối chiếu quyết định của Trọng tài nước ngoài, các giấy tờ tài liệu kèm theo đơn yêu cầu với quy định của bộ luật, các quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có liên quan để ra quyết định. Do đó, Hội đồng phiên họp phúc thẩm chỉ xem xét vụ án trên cơ sở đối chiếu với các quy định tại Điều 459 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Đối với thỏa thuận trọng tài, Công ty N là một bên trong các hợp đồng mua bán bông với Công ty G thông qua công ty môi giới là Công ty TNHH B. Về Hợp đồng số 669229 ngày 28/11/2011, có nội dung Công ty G bán cho Công ty N 50 tấn bông xuất xứ A. Hợp đồng này chứa điều khoản trọng tài, nhưng vì Công ty N không ký vào hợp đồng này, thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý đối với Công ty N.

Đối với Hợp đồng số 658931 ngày 16/2/2011 và Hợp đồng số 659642 ngày 09/3/2011, đã được Công ty N ký, nhưng không có điều khoản về trọng tài như Hợp đồng số 669229. Tòa án xác định rằng thỏa thuận trọng tài trong các hợp đồng này không có giá trị pháp lý đối với Công ty N.

Do đó, Trọng tài Hiệp hội B quốc tế không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đối với các hợp đồng nêu trên đối với Công ty N, và Hội đồng xét đơn sơ thẩm không công nhận và không thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài.

Trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện của Công ty G cho rằng Hiệp hội B quốc tế đã gửi các thông báo tố tụng cho Công ty N qua hình thức chuyển phát nhanh và thư điện tử. Tuy nhiên, Công ty G thừa nhận chỉ gửi thông báo qua thư điện tử cho Công ty môi giới là Công ty TNHH B mà không gửi trực tiếp đến Công ty N, và không có bằng chứng Công ty N đã nhận được thông báo từ công ty môi giới. Trong phiên họp phúc thẩm, đại diện của Công ty G cũng cho rằng thông báo đã được gửi bằng dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế F, và ông J - Trưởng Bộ phận Trọng tài của Hiệp hội B quốc tế đã xác nhận rằng thông báo đã được giao đến Công ty N một cách hợp lệ.

Tuy nhiên, trong văn bản của F gửi cho Tòa án, F thông báo rằng đại lý của họ không cung cấp chứng cứ phát hàng (POD) vì đã hủy bỏ các POD cũ. Hội đồng xét đơn phúc thẩm kiểm tra dữ liệu và chỉ có bản sao của các giữ liệu lưu trữ với một bưu phẩm có người nhận là Sơn, các bưu phẩm khác không có tên người nhận. Công ty N khẳng định rằng không có ai tên là Sơn làm hành chính tại Công ty, chỉ có 2 người tên là Sơn, một là nhân viên bảo vệ và một là công nhân. Do đó, Công ty N khẳng định không nhận được các văn bản tố tụng của Hiệp hội B quốc tế.

Dựa trên các điều này, Hội đồng xét đơn phúc thẩm kết luận rằng Tòa án cấp sơ thẩm đúng khi không chấp nhận đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Phán quyết của Hội đồng trọng tài Hiệp hội B quốc tế ngày 12/8/2013, và kháng cáo của Công ty G không có cơ sở chấp nhận. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cấp cao tại Hà Nội được chấp nhận vì phù hợp với quy định của hội đồng xét xử.

3. Quyết định của Tòa án

Quyết định của Tòa án nhân dân:

- Không chấp nhận kháng cáo của Công ty G và giữ nguyên Quyết định số 01/2016/QĐKDTM-ST ngày 30/05/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định.

- Áp dụng các khoản quy định trong Điều 31, Điều 459, Điều 461, Điều 430 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, cũng như các quy định về lệ phí Tòa án.

- Không chấp nhận Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Phán quyết trọng tài ngày 12/8/2013 của Hội đồng trọng tài - Hiệp hội B quốc tế về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán bông giữa Công ty G và Công ty N.

- Về lệ phí xét đơn yêu cầu: Công ty G phải chịu 4.000.000 VNĐ, nhưng được đối trừ số tiền 4.000.000 VNĐ đã nộp vào tài khoản của Bộ Tư pháp theo ủy nhiệm chi ngày 13/01/2016 từ Chi nhánh T tại Hà Nội. Công ty G đã thi hành xong lệ phí xét đơn yêu cầu.

- Về lệ phí phúc thẩm: Công ty G phải chịu 200.000 VNĐ, nhưng được đối trừ vào số tiền 200.000 VNĐ đã nộp vào Cục thi hành án dân sự tỉnh Nam Định theo Biên lai thu tiền số 08580 ngày 07/06/2016 do ông Nguyễn Đức S nộp thay ông Lê Xuân L.

Xem thêm: Sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hình sự là gì?

Liên hệ qua 1900.6162 hoặc lienhe@luatminhkhue.vn