1. Mục tiêu của chính sách giải thích pháp luật

Ta có thể đưa ra định nghĩa: Mục tiêu của chính sách giải thích pháp luật là tối ưu hóa quá trình giải thích pháp luật, trợ giúp cho hoạt động giải thích pháp luật.

2. Khái quát về phương diện nhìn nhận quá trình giải thích pháp luật

Quá trình giải thích pháp luật được nhìn nhận ít nhất ở hai phương diện: giải thích pháp luật là một quá trình nhận thức nhất định và giải thích pháp luật là một quy trình.

Trong tiến trình giải thích người giải thích pháp luật dựa vào những hiểu biết nhất định để lập luận, kết luận và đưa ra những hiểu biết sâu sắc phản ánh nội dung của các quy phạm pháp luật.

Nếu như giải thích pháp luật là sự nhận thức trung chuyển, thì thông qua hay bằng những hiểu biết như thế nào để có thể thâm nhập vào, hiểu biết sâu sắc nội dung của các quy phạm pháp luật, thu nhận được các dữ liệu phản ánh ý nghĩa của chúng. Những hiểu biết đó là những hiểu biết về các hình thức bên ngoài của đời sống, về các mối liên hệ và các mối trang chuyển của các quy phạm pháp luật. Thứ nhất, trong số các hình thức và các mối liên hệ đó cần nói đến hình thức ngôn ngữ. Thứ hai, các quy phạm pháp luật là một bộ phận của hệ thống pháp luật, từng quy phạm pháp luật được thể hiện trong các mối liên hệ với các quy phạm khác. Các mối liên hệ đó ảnh hưởng đến nội dung của các quy phạm pháp luật, đến sự hiểu biết và các mối liên hệ như vậy cần phải được cân nhắc khi tiến hành giải thích pháp luật. Thứ ba, các quy phạm pháp luật có nguồn gốc của mình và sự hiểu biết về nguồn gốc đó cũng được sử dụng trong giải thích pháp luật. Thứ tư, các quy phạm pháp luật được thực hiện trong các hoạt động, hành vi của các chủ thể ở trong hoàn cảnh xã hội nhất định. Có nhiều yếu tố xã hội (chính trị, ý thức pháp luật, đạo đức...) tác động đến hành vi của các chủ thể đó. Trong quá trình điều chỉnh pháp luật, các quan hệ xã hội, các quy phạm pháp luật tương tác với các yếu tố đó, và những hiểu biết về các mối liên hệ như vậy được sử dụng trong giải thích pháp luật.

Do đó, trong tiến trình giải thích, ý nghĩa của các quy phạm pháp luật được nhận thức thông qua những hiểu biết về ngôn ngữ mà dựa vào đó các quy phạm được diễn đạt, thông qua những hiểu biết về các mối liên hệ mang tính hệ thống của các quy phạm pháp luật, những hiểu biết về nguồn gốc và sự vận động của chúng. Ngoài ra, trong tiến trình giải thích tài liệu mang tính nội dung của chính các quy phạm pháp luật cũng được sử dụng và việc sử dụng tài liệu đó vói sự trợ giúp của các quy tắc lôgic cho phép thâm nhập sâu, triêh khai, phát triêh nội dung của các quy phạm pháp luật. Các quy tắc đó thuộc phương pháp lôgic mà ở đó người giải thích không sử dụng các phương tiện bên ngoài khác để giải thích.

Giải thích với tư cách là quá trình tư duy đều phục tùng các quy luật và các quy tắc của lôgic hình thức và lôgic biện chứng. Mọi luận điểm được giải thích đều phải được lập luận, được chứng minh. Giải thích có được phẩm chất đó chỉ trong trường hợp nếu như chính quá trình giải thích pháp luật được tiến hành phù hợp với các quy tắc nói trên. Biện chứng của giải thích pháp luật được biểu hiện trong tổng thể các phương pháp và các quy tắc được sử dụng đê’ giải thích pháp luật.

3. Giải thích pháp luật với tư cách là một quá trình nhận thức về pháp luật

Giải thích pháp luật với tư cách là một quá trình nhận thức về pháp luật - đó không chỉ là một quá trình khách quan (khách thể nhận thức không phụ thuộc vào chủ thể nhận thức), quá trình nhận thức được diễn ra trong sự phù hợp với các quy luật khách quan hiện có của lôgic hình thức và lôgic biện chứng, mà còn là một quá trình chủ quan, bởi vì, nó do chủ thê’ cụ thể thực hiện, còn kết quả của giải thích được thể hiện trong các hình thức chủ quan của tư duy (các khái niệm, các kết luận). Các chủ thể giải thích pháp luật có các năng lực trí tuệ, trình độ đào tạo nghề nghiệp, kinh nghiệm cá nhân và các yếu tố khác không giống nhau. Các phẩm chất đó có thể là nguồn gốc của những sai lầm, hiểu lầm, của sự nhận thức một chiều, không đúng đắn về các quy phạm pháp luật. Chủ thê’ của giải thích pháp luật là người đại diện cho hệ tư tưởng này hay hệ tư tưởng khác, có ý thức pháp luật ở những trình độ pháp luật khác nhau, ý thức đạo đức không giống nhau, là người đại diện lợi ích của một giai cấp, một giai tầng, một nhóm xã hội nhất định.

Điều đó giải thích vì sao hiện có các cách tiếp cận giải thích pháp luật khác nhau - cách tiếp cận tình và cách tiếp cận động đến giải thích pháp luật. Trong cách tiếp cận tĩnh, tính ổn định và tính xác định của pháp luật được coi là các giá trị cơ bản của hiện thực pháp luật. Hướng đến các giá trị đó, người giải thích pháp luật không cần phải chỉnh sửa, thay đổi ý nghĩa của luật bằng bất kỳ lý do nào, người đó cần phải xác định chính ý nghĩa của đạo luật mà nhà làm luật đưa vào đạo luật đó. Theo cách tiêp cận động, trong tiến trình giải thích pháp luật, người giải thích pháp luật mong muốn làm cho đạo luật đĩ sát, liên hệ vói đời sống, vận dụng và chỉnh sửa nó trong những trường hợp cần thiết.

4. Phương diện giải thích pháp luật với tư cách là một quy trình

Giải thích pháp luật với tư cách là một quy trình được hiểu là cách thức, trình tự, các giai đoạn tiến hành giải thích pháp luật.

Tùy thuộc vào các hình thức giải thích pháp luật (giải thích chính thức và giải thích không chính thức), các loại giải thích pháp luật (giải thích luật hiến pháp, giải thích luật hình sự, giải thích luật dân sự...) mà có nhiều loại quy trình giải thích pháp luật khác nhau. Nhưng nhìn một cách tổng quan, quy trình giải thích pháp luật được diễn ra một cách chặt chẽ, rõ ràng, lôgic, đặc biệt là quy trình giải thích chính thức pháp luật.

Quy trình giải thích chính thức pháp luật bao gồm các giai đoạn theo trình tự sau đây: đề nghị giải thích pháp luật; tiếp nhận đề nghị giải thích pháp luật; thực hiện giải thích pháp luật; ban hành văn bản giải thích pháp luật; công bố văn bản giải thích pháp luật. Các giai đoạn nói trên được tiếp nối nhau, diễn ra theo một logic mang tính hệ thống chặt chẽ và có điểm khởi đầu và điểm kết thúc. Nhìn từ phương diện chính sách giải thích pháp luật, quy trình đó cần phải được pháp luật điều chỉnh.

Theo quy trình trên, các chủ thể có nhu cầu giải thích pháp luật gửi kiến nghị giải thích pháp luật đến cơ quan có thẩm quyền giải thích pháp luật. Cơ quan có thẩm quyền giải thích pháp luật tiếp nhận kiến nghị giải thích pháp luật theo quy định. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành giải thích pháp luật theo kiến nghị đã được tiếp nhận. Cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản giải thích pháp luật dưới hình thức nhất định - kết quả của giải thích pháp luật. Cuối cùng, cơ quan có thẩm quyền công bố văn bản giải thích pháp luật và hệ thống hóa các văn bản giải thích pháp luật.

Trong giải thích pháp luật không chính thức quy trình giải thích pháp luật không do pháp luật điều chỉnh và không phải là bắt buộc đối với các chủ thể giải thích pháp luật. Tuy nhiên, với tư cách là một hoạt động, giải thích không chính thức pháp luật vẫn phải tuân thủ các cách thức, trình tự được thừa nhận chung.

Giải thích pháp luật là một loại hoạt động pháp luật.

Hoạt động giải thích pháp luật là một loại hoạt động được hiểu là sự tác động có tính hướng đích của chủ thể giải thích pháp luật đối với khách thể được giải thích.

Khách thể của hoạt động giải thích pháp luật là pháp luật và các hiện tượng, quá trình, sự kiện liên quan đến pháp luật.

Nội dung của hoạt động giải thích pháp luật được quyết định bởi đặc trưng của khách thể của hoạt động đó là pháp luật. Pháp luật với sự thể hiện phong phú về các quy phạm pháp luật, quan hệ pháp luật, ý thức pháp luật và điều chỉnh pháp luật là khách thể của hoạt động giải thích pháp luật. Trong các bộ phận cấu thành đó, xét ở phương diện giải thích pháp luật, thì quy phạm pháp luật là bộ phận cấu thành quan trọng, do vậy, giải thích quy phạm pháp luật giữ vị trí đặc biệt trong cơ cấu giải thích pháp luật. Giải thích quy phạm pháp luật là loại hoạt động giải thích pháp luật có tất cả các đặc điểm về chất của hoạt động giải thích pháp luật, đồng thời, có cả các đặc điểm đặc thù quan trọng. Thứ nhất, hoạt động giải thích quy phạm pháp luật do các chủ thể có thẩm quyền và các chủ thể khác thực hiện trong mối quan hệ với một nhóm các quan hệ xã hội rộng lớn, không mang tính chất cá nhân hóa, đã được dự liệu cho việc áp dụng pháp luật nhiều lần. Thứ hai, hoạt động giải thích quy phạm pháp luật nhằm trật tự hóa thực tiễn thực hiện các quy phạm pháp luật trên cơ sở nhận thức thống nhất và áp dụng đúng ý chí của nhà làm luật. Bản chất chính trị - quản lý của hoạt động giải thích quy phạm chính thức (giải thích từ nguyên bản và giải thích họp pháp) cũng như tính độc lập tương đối của nó trong quan hệ cả với hoạt động áp dụng pháp luật lẫn với hoạt động xây dựng pháp luật được thể hiện rất rõ trong các dấu hiệu nêu ở trên. Các văn bản giải thích pháp luật hình thành nên một loại văn bản pháp luật độc lập và đó là một phương tiện để nhà nước quản lý xã hội.

Rõ ràng, hoạt động giải thích quy phạm pháp luật chính thức có ý nghĩa độc lập quan trọng đối với sự hình thành và thực hiện chính sách pháp luật của nhà nước. Hoạt động giải thích đó không chỉ có khả năng chỉnh sửa, hoàn thiện chiến lược và sách lược chung về điều chỉnh pháp luật mà còn hình thành nên chiến lược và sách lược đó ở những giói hạn nhất định trong quá trình phát triển pháp luật. Hoạt động giải thích quy phạm chính thức không chỉ thực hiện chức năng pháp lý riêng mà còn cả chức năng chính trị. Chức năng pháp lý riêng của hoạt động giải thích quy phạm chính thức nói riêng, hoạt động giải thích pháp luật nói chung thể hiện ở việc bảo đảm pháp chế và tính hợp lý của các quá trình pháp luật, đặc biệt của quá trình áp dụng pháp luật. Hoạt động giải thích quy phạm chính thức có chức năng chính trị thể hiện ở chỗ, hoạt động giải thích đó thể hiện với tư cách là người dẫn đường về đường lối chính trị - pháp luật tương ứng của nhà nước. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt khi các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành có nhiều quan điểm, nội dung mới cần phải được làm sáng rõ để đưa vào quá trình áp dụng trong thực tiễn. Trong điều kiện như vậy, các văn bản giải thích pháp luật vừa thực hiện chức năng pháp lý riêng vừa thực hiện chức năng chính trị.

Chủ thể của hoạt động giải thích pháp luật có thể là nhà nước, các cơ quan nhà nước, các tổ chức và các cá nhân cụ thể. Nói một cách khái quát, chủ thể của hoạt động giải thích pháp luật là người mà bằng hoạt động của mình đưa đến những hậu quả có ý nghĩa về mặt pháp lý.

Hoạt động giải thích pháp luật chính thức do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành. Tùy thuộc vào đặc trưng của tổ chức bộ máy nhà nước, pháp luật và truyền thống pháp luật mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức là khác nhau. Các cơ quan đó có thể là cơ quan lập pháp hoặc cơ quan thường trực của cơ quan lập pháp, tòa án hay các cơ quan nhà nước khác nhau. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam quy định ủy ban Thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn "giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh" (Điều 74).

Hoạt động giải thích pháp luật không chính thức do bất cứ chủ thể nào tiến hành. Đó có thể là các cơ quan, tổ chức nghiên cứu và đào tạo, các nhà nghiên cứu, giảng viên, các cán bộ làm việc trong các cơ quan pháp luật, các luật gia. Giải thích pháp luật của các nhà khoa học, các thẩm phán, các luật sư, các luật gia có tác động lớn đến hoạt động xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật.

Trong tiến trình giải thích pháp luật có thể diễn ra việc chỉnh sửa cả hoạt động thực hiện pháp luật lẫn hoạt động xây dựng pháp luật cho đến việc thay đổi nội dung của quy phạm pháp luật. Do vậy, chính sách giải thích pháp luật được thê’ hiện trong các văn bản giải thích pháp luật chính thức và trong các quyết định về các vụ việc cụ thể.

5. Kết thúc vấn đề

Từ việc phân tích trên, một lần nữa có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để khẳng định rằng, mục tiêu của chính sách giải thích pháp luật là tối ưu hóa quá trình giải thích pháp luật với tư cách là một quá trình nhận thức nhất định và một quá trình có các giai đoạn nhất định, trợ giúp cho hoạt động giải thích pháp luật với tư cách là một loại hoạt động pháp luật có khách thể, nội dung, chủ thể của nó.

Trên đây là nội dung Luật Minh Khuê sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.6162 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Luật Minh Khuê (Sưu tầm và Biên soạn).