1. Hoạt động đặc xá được hiểu như thế nào?

Căn cứ tại quy định khoản 1 Điều 3 Luật Đặc xá năm 2018 thì đặc xá được hiểu là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt.

Theo đó, thẩm quyền đặc xá sẽ thuộc về Chủ tịch nước và áp dụng cho người bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân, không áp dụng cho người bị kết án tử hình, người đang bị tạm giam, tạm giữ hoặc đang bị truy tố.

Trong đó, theo khoản 1 Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định. Ngoài ra, tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định. Còn tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị áp dụng hình phạt tử hình.

Từ đó, có thể thấy, các hình phạt như tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình là những hình phạt khác nhau được áp dụng đối với những người phạm tội. Tùy theo loại tội phạm và mức độ phạm tội mà việc áp dụng hình phạt đối với những người phạm tội sẽ khác nhau. Bên cạnh sự nhân đạo, mang tính giáo dục thì những hình phạt được đưa ra nhằm mục đích trừng trị nghiêm khắc những người phạm tội. Chính vì vậy mà không phải trường hợp nào người phạm tội cũng được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

 

2. Để được đặc xá thì phải thỏa mãn các điều kiện nào?

Theo quy định tại Điều 11 Luật Đặc xá năm 2018, được hướng dẫn bởi Điều 4 Nghị định 52/2019/NĐ-CP ngày 14 tháng 6 năm 2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đặc xá thì để được đặc xá, mỗi đối tượng chịu hình phạt khác nhau sẽ phải thỏa mãn những điều kiện khác nhau, cụ thể như sau:

Đối với người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, người bị kết án phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn

- Có nhiều tiến bộ, ý thức cải tạo tốt và được xếp loại chấp hành án phạt tù khá hoặc tốt theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự;

- Đã chấp hành án phạt tù được một thời gian nhưng ít nhất 1/3 thời gian đối với trường hợp bị phạt tù có thời hạn; đã chấp hành án phạt tù ít nhất là 14 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn;

Người bị kết án về tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội; tội phá hoại nhằm chống chính quyền nhân dân; tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân;

Người bị kết án từ 10 năm tù trở lên về một trong các tội quy định tại Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người do cố ý;

Người bị kết án từ 07 năm tù trở lên về tội cướp tài sản; tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; tội sản xuất trái phép chất ma túy; tội mua bán trái phép chất ma túy; tội chiếm đoạt chất ma túy của Bộ luật Hình sự đã chấp hành án phạt tù được một thời gian nhưng ít nhất là 1/2 thời gian đối với trường hợp bị kết án phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù;

Đã chấp hành án phạt tù ít nhất là 17 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn.

- Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, đã nộp án phí;

- Đã thi hành xong nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác đối với người bị kết án phạt tù về các tội phạm tham nhũng hoặc tội phạm khác do Chủ tịch nước quyết định trong mỗi lần đặc xá;

- Đã thi hành xong hoặc thi hành được một phần nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác nhưng do lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn thuộc trường hợp chưa có điều kiện thi hành tiếp phần còn lại theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự đối với người bị kết án phạt tù không thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản này.

Trường hợp phải thi hành nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác đối với tài sản không thuộc sở hữu của Nhà nước thì phải được người được thi hành án đồng ý hoãn thi hành án hoặc không yêu cầu thi hành án đối với tài sản này;

- Khi được đặc xá không làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự;

- Không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 12 của Luật này.

Đối với người đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù được đề nghị đặc xá:

- Có nhiều tiến bộ, ý thức cải tạo tốt và được xếp loại chấp hành án phạt tù khá hoặc tốt trong thời gian chấp hành án phạt tù trước khi có quyết định tạm đình chỉ;

- Đã có thời gian chấp hành án phạt tù quy định tại điểm b khoản 1 Điều 11 Luật Đặc xá;

- Các điều kiện quy định tại các điểm c, d, đ, e và g khoản 1 Điều 11 Luật Đặc xá;

- Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật trong thời gian được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù.

Các trường hợp chung khác:

- Đã lập công lớn trong thời gian chấp hành án phạt tù, có xác nhận của trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc cơ quan có thẩm quyền khác;

- Người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; người được tặng thưởng danh hiệu Dũng sỹ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước; “Anh hùng Lao động”; một trong các loại Huân chương, Huy chương Kháng chiến; cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sỹ và người có công nuôi dưỡng liệt sỹ khi còn nhỏ; con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng; cha, mẹ, vợ, chồng, con của người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công” hoặc Bằng “Có công với nước”;

- Người đang mắc bệnh hiểm nghèo, người đang ốm đau thường xuyên mà không tự phục vụ bản thân;

- Khi phạm tội là người dưới 18 tuổi;

- Người từ đủ 70 tuổi trở lên;

- Có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và bản thân là lao động duy nhất trong gia đình;

- Phụ nữ có thai hoặc có con dưới 36 tháng tuổi đang ở với mẹ trong trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ;

- Người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định của pháp luật về người khuyết tật; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của pháp luật về dân sự;

- Trường hợp khác do Chủ tịch nước quyết định.

Ngoài ra, đối với người dưới 18 tuổi đang chấp hành án phạt tù có đủ điều kiện quy định tại điểm a và điểm g khoản 1 Điều 11 Luật Đặc xá hoặc người dưới 18 tuổi đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù có đủ điều kiện quy định tại điểm g khoản 1, điểm a và điểm d khoản 2 Điều 11 được Chủ tịch nước quyết định thời gian đã chấp hành án phạt tù ngắn hơn so với thời gian quy định tại điểm b khoản 1 Điều 11.

 

3. Bị kết án tử hình thì có được hưởng đặc xá không?

Thứ nhất, theo khoản 1 Điều 3 Luật Đặc xá năm 2018 có quy định về hình thức đặc xã chỉ được áp dụng đối với người bị kết án là phạt tù có thời hạn và tù chung thân. Còn đối với người bị tuyên án là hình phạt tử hình thì không áp dụng được thủ tục đặc xá. 

Thứ hai, mặc dù người bị kết án tử hình không được hưởng đặc xá, tuy nhiên pháp luật Việt Nam đề cao tính khoan hồng, vậy nên những người bị kết án tử hình vẫn có thể được xin ân giảm.

Theo quy định tại điểm d, đ, e khoản 1 Điều 367 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước.

Đối với bản án tử hình được thi hành, nếu Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm và người bị kết án không có đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước.

- Trong trường hợp bản án tử hình bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm mà Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm Tòa án nhân dân tối cao quyết định không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án tử hình, thì Tòa án nhân dân tối cao phải thông báo ngay cho người bị kết án biết để họ làm đơn xin ân giảm án tử hình.

Trong trường hợp người bị kết án xin ân giảm hình phạt tử hình thì bản án tử hình được thi hành sau khi Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm.

Khi đó, theo quy định nêu trên thì người bị kết án tử hình hoàn toàn có quyền được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước trong thời hạn được quy định nêu trên. Bên cạnh đó, tại khoản 4 Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì trong trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân. Mà theo quy định, nếu cải tạo tốt, người này tiếp tục nhận được các chính sách khoan hồng khác như được giảm xuống tù có thời hạn, được tiếp tục giảm án và có thể chỉ phải chấp hành 20 năm tù. Vì vậy, nếu quy định đặc xá với người bị kết án tử hình thì đối tượng này được hưởng quá nhiều chính sách khoan hồng và sẽ không bảo đảm tính răn đe của pháp luật.

Tóm lại, đặc xá chỉ áp dụng cho hình phạt tù có thời hạn hoặc tù chung thân và không được áp dụng đối với người bị kết án tử hình. Tuy nhiên, người bị kết án tử hình vẫn có thể làm thủ tục xin ân giảm gửi Chủ tịch nước để có thể hưởng các chính sách khoan hồng của pháp luật.

Ngoài ra, quý khách có thể tham khảo thêm về bài viết của Luật Minh Khuê như sau:  Ân giảm hình phạt tử hình là gì? Quyền của Chủ tịch nước trong ân giảm án tử hình và đặc xá

Mọi vướng mắc chưa rõ hoặc có nhu cầu hỗ trợ vấn đề pháp lý khác, quý khách vui lòng liên hệ với Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại 24/7, gọi ngay tới số: 1900.6162 hoặc gửi email trực tiếp tại: lienhe@luatminhkhue.vn để được hỗ trợ và giải đáp thắc mắc nhanh chóng. Cảm ơn quý khách hàng đã quan tâm theo dõi bài viết của Luật Minh Khuê