Mục lục bài viết
- 1. Xác định trách nhiệm "người thứ ba" đối với nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại
- 2. Quy định trách nhiệm "người thứ ba" đối với nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại
- 3. Bộ luật Dân sự Pháp về trách nhiệm người thứ ba
- 4. Bộ luật Dân sự Đức về trách nhiệm người thứ ba
- 5. Bộ luật Dân sự Nhật Bản về trách nhiệm người thứ ba
- 6. Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan về trách nhiệm người thứ ba
Khách hàng: Kính thưa Luật sư Minh khuê, hiện nay pháp luật dân sự có quy định về trách nhiệm của người thứ ba đối với nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại hay không? Đối với quy định các nước trên thế giới có quy định như thế nào đối với trường hợp này?
Cảm ơn!
Trả lời:
1. Xác định trách nhiệm "người thứ ba" đối với nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại
Khi nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại, chúng ta thường chỉ quan tâm đến trách nhiệm của chủ sở hữu, người quản lý, sử dụng hoặc của người thi công. Điều này thể hiện ở việc, pháp luật hiện nay chỉ quan đến đến việc xem xét trách nhiệm của các chủ thể này khi thiệt hại xảy ra.
Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy, nhà cửa, công trình khác gây thiệt hại có thể do tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau như do người sử dụng, người thi công, do môi trường tự nhiên tác động, thậm chí có thể do hoạt động xây dựng các công trình liền kề hoặc do hoạt động khai thác mạch nước ngầm của các chủ thể khác nhau.
Do đó, khi nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại, chúng ta không thể không đề cập tới lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người thứ ba (người thi công công trình liền kề, người khai thác các mạch nước ngầm,...).
=> Người thứ ba được hiểu là người không phải là chủ sở hữu, người quản lý, sử dụng hoặc của người thi công. "Người thứ ba có thể là nhiều chủ thể khác nhau như người thi công công trình liền kề, người khai thác các mạch nước ngầm,...
2. Quy định trách nhiệm "người thứ ba" đối với nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại
Trong cả hai bộ luật dân sự trước đây và Bộ luật dân sự năm 2015 đều không đề cập tới trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người thứ ba. Điều này không có nghĩa trên thực tế, nếu nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại mà người thứ ba có lỗi thì họ không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Tuy nhiên, việc không quy định cụ thể về trách nhiệm của người thứ ba khi nhà cửa, công trình khác gây thiệt hại như hiện nay sẽ dẫn tới những vấn đề bất cập có thể gây ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động xét xử cũng như quyền lợi của các chủ thể có hên quan.
Nếu thiệt hại xảy ra, người thứ ba có lỗi mà buộc người thứ ba phải chịu trách nhiệm (liên đới hoặc độc lập) thì không có cơ sở pháp lý rõ ràng. Chúng ta khó có thể viện dẫn quy định về bồi thường thiệt hại do hành vi của người thứ ba gây ra trong nhiều trường hợp (Ví dụ như hoạt động khai thác nước ngầm của nhiều hộ gia đình, cá nhân có thể dẫn đến nhà cửa, công trình xây dựng của một chủ thể bị sập gây thiệt hại cho người xung quanh).
Hơn nữa, ngay trong quy định chung về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra tại khoản 3 Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:
"Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
...
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này."
Như vậy điều luật này cũng không đề cập tới trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người thứ ba. Do đó, hầu như chúng ta không thể viện dẫn cơ sở pháp lý để buộc người thứ ba phải bồi thường thiệt hại khi họ cũng bị coi là có lỗi. Nếu buộc chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng phải bồi thường toàn bộ ngay cả khi người thứ ba cũng có lỗi hoặc lỗi hoàn toàn thuộc về người thứ ba (nhà này đào móng làm đổ nhà bên cạnh gây thiệt hại cho người xung quanh) thì sẽ không phù hợp với lẽ công bằng.
Những phân tích này cho thấy việc xác định cụ thể trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người thứ ba khi nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại là thật sự cần thiết. Do đó, quy định về bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra cần phải được sửa đổi, bổ sung theo hướng cụ thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người thứ ba.
Liên quan đến việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra, sau đây chúng tôi đã sưu tầm và đưa ra pháp luật của các quốc gia cũng có những quy định khác nhau về vấn đề trên.
3. Bộ luật Dân sự Pháp về trách nhiệm người thứ ba
Theo Điều 1386 Bộ luật Dân sự Pháp quy định: “chủ sở hữu một công trình xây dựng phải chịu trách nhiệm về thiệt hại gây ra do công trình bị đổ vì thiếu bảo dưỡng hoặc vì khuyết tật trong khỉ xây dựng”. Có thể thấy, quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra nói riêng trong Bộ luật Dân sự Pháp rất đơn giản. Quy định này hầu như chỉ mang tính nguyên tắc, trong đó trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công trình xây dựng gây ra chỉ thuộc về chủ sở hữu. Tuy nhiên, một số quy định khác có liên quan lại đề cập đến trách nhiệm của chủ thể khác như:
- Tại Điều 1384 quy định dẫn chiếu đến Luật ngày 7/11/1922 như sau: “Tuy nhiên, với bất kỳ danh nghĩa nào, người giữ toàn bộ hoặc một phần bất động sản hoặc những động sản mà trong xảy ra hỏa hoạn chỉ phải chịu trách nhiệm đổi với người thứ ba về những thiệt hại do hỏa hoạn gây ra, nếu chứng minh được lỗi của họ hoặc lỗi của người mà họ chịu trách nhiệm”. Theo quy định này, khi bất động sản (gồm cả công trình xây dựng) bị cháy gây thiệt hại, trách nhiệm bồi thường thuộc về người giữ bất động sản mà bị cháy đó. Tức là người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi bất động sản bị cháy có thể là chủ sở hữu hoặc các chủ thể khác. Điều này thể hiện sự mâu thuẫn với quy định tại Điều 1368. Cũng theo quy định này cho thấy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh nếu người giữ bất động sản có lỗi. Hơn nữa, quy định này không xác định cụ thể người giữ tài sản là ai, nhưng Điều luật này lại không áp dụng đối với quan hệ giữ chủ sở hữu và người thuê nhà. Tức là bản thân người thuê nhà sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi nhà thuê bị cháy gây thiệt hại. Nhưng điều này không có nghĩa rằng, khi nhà cửa, công trình xây dựng gây thiệt hại, người thuê sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Trách nhiệm của người thuê được quy định trong chế định hợp đồng, cụ thể là tại Điều 1733 và 1734 Bộ luật này. Theo Điều 1733 Bộ luật Dân sự Pháp, bên thuê nhà phải chịu trách nhiệm về hỏa hoạn do nhà thuê gây ra. Điều 1734 lại xác định trách nhiệm của tất cả những người thuê dựa theo tỉ lệ tương ứng với giá thuê bất động sản mà người thuê sử dụng. Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người thuê được loại trừ trong trường hợp hỏa hoạn là do ngẫu nhiên hoặc bất khả kháng hoặc do khuyết tật trong xây dựng, hoặc lửa đã lan sang từ ngôi nhà bên cạnh.
Với những phân tích này cho thấy, quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra theo quy định của pháp luật Pháp có một số điểm khác biệt với pháp luật Việt Nam như sau:
+ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra không chỉ được quy định trong chế định bồi thường thiệt hại ngoài họp đồng, mà còn quy định trong cả chế định họp đồng;
+ Còn mâu thuẫn giữa các quy định liên quan đến việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại;
+ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh dựa trên yếu tố lỗi của chủ thể quản lý;
+ Một điểm bất cập theo quan điểm của tác giả đó là dù công trình bị đổ do thiếu bảo dưỡng hoặc do khuyết tật trong khi xây dựng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại đều thuộc về chủ sở hữu, bất kể yếu tố lỗi đó thuộc về chủ sở hữu hay người thi công công trình xây dựng.
Những khác biệt này không phải là tiêu chí để đánh giá sự tiến bộ hay không tiến bộ của pháp luật các nước với nhau, mà nó chỉ đơn giản thể hiện sự phù họp của pháp luật mỗi nước đối với điều kiện kinh tế, xã hội. Điều này cũng có nghĩa rằng, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra chưa hẳn đã phù họp khi áp dụng tại Việt Nam.
4. Bộ luật Dân sự Đức về trách nhiệm người thứ ba
Trong Bộ luật Dân sự Đức, việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra được thể hiện trong các quy định khác nhau.
Trong đó, chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường bao gồm người chiếm hữu mảnh đất (Điều 836), người chiếm hữu tòa nhà hoặc công trình trên đất (Điều 837) và người bảo trì (Điều 838). Tuy nhiên, tùy từng trường hợp cụ thể mà chủ thể phải bồi thường thiệt hại được xác định cụ thể.
- Nếu nhà cửa, công trình khác gây thiệt hại mà liên quan đến hoạt động bảo trì thì người bảo trì bồi thường;
- Nếu tòa nhà hoặc công trình đang thuộc sự chiếm hữu của người nào thì người đó phải bồi thường thay cho người chiếm hữu mảnh đất;
- Nếu người chiếm hữu mảnh đất đồng thời là người chiếm hữu tòa nhà hoặc công trình khác gây thiệt hại thì người chiếm hữu mảnh đất bồi thường.
Tuy nhiên, trường hợp người chiếm hữu mảnh đất đã thôi chiếm hữu mảnh đất thì trong vòng một năm kể từ ngày thôi chiếm hữu, nếu tòa nhà hoặc công trình khác gây thiệt hại thì họ vẫn phải bồi thường thiệt hại.
Như vậy, quy định của pháp luật Đức cũng có điểm tương đồng nhất định với pháp luật Việt Nam. Điều đó thể hiện ở chỗ việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại dựa trên nguyên tắc chủ thể nào có quyền chi phối đối với tài sản thì chủ thể đó phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra.
5. Bộ luật Dân sự Nhật Bản về trách nhiệm người thứ ba
Trong Bộ luật Dân sự Nhật Bản, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công trình xây dựng gây ra được quy định tại Điều 717 cũng hết sức đơn giản.
Theo đó, việc xác định chủ thể bồi thường thiệt hại theo thứ tự nhất định.
Trước hết, trách nhiệm bồi thường thuộc về người chiếm hữu cấu trúc trên đất. Nếu người chiếm hữu đã thể hiện sự quan tâm đúng mức nhằm ngăn chặn việc xảy ra thiệt hại (tức là người chiếm hữu chứng minh không có lỗi trong việc quản lý) thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về chủ sở hữu các cấu trúc.
Ngoài ra, Bộ luật Dân sự Nhật Bản cũng quy định về trách nhiệm của người thứ ba, cụ thể:
"nếu có một người thứ ba chịu trách nhiệm về việc gây thiệt hại thì hoặc là người chiếm hữu hoặc là chủ sở hữu có thể thực hiện quyền đòi người này thanh toán lại”.
Theo quy định này, nếu người thứ ba có lỗi thì trước hết người chiếm hữu hoặc chủ sở hữu phải bồi thường cho người bị thiệt hại trước, sau đó mới có quyền yêu cầu người thứ ba thanh toán lại. Quy định này mặc dù sẽ có thể khiến cho quá trình tố tụng kéo dài, nhưng nó lại tạo điều kiện cho người bị thiệt hại có thể dễ dàng xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường.
6. Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan về trách nhiệm người thứ ba
Trong Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan, việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng tương tự như Bộ luật Dân sự Nhật Bản ta vừa nói ở mục trên.
Theo đó, đầu tiên trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về người chiếm hữu ngôi nhà hoặc kiến trúc. Nếu người chiếm hữu đã có sự chăm nom thích đáng để ngăn ngừa thiệt hại (người chiếm hữu không có lỗi trong quản lý) thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về chủ sở hữu.
Tại Điều 434 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan cũng quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người thứ ba. Tuy nhiên, nếu người thứ ba phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì trước hết chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu bồi thường trước, sau đó được quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn.
=> Kết luận: Thông qua những phân tích ở trên cho thấy mỗi quốc gia đều có quy định khác nhau liên quan đến việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra. Khi so sánh với pháp luật Việt Nam, pháp luật Việt Nam cũng có những điểm tương đồng và khác biệt. Trong đó, điểm khác biệt với quốc gia này lại là điểm tương đồng với quốc gia khác. Tuy nhiên, có lẽ điểm khác biệt giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật các quốc gia được đề cập đến ở những phân tích trên đó là pháp luật Việt Nam có quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên đới giữa người thi công với chủ sở hữu cũng như người chiếm hữu, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác. Trong khi đó, pháp luật của các quốc gia đều quy định trách nhiệm bồi thường độc lập của các chủ thể có liên quan.
Trân trọng!