Mục lục bài viết
- 1. Tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
- 2. Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
- 3. Cơ sở pháp lý trong phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
- 4. Một số quy định hiện hành đối với các cơ quan nhà nước trong phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
- 5. Thực tiễn các biện pháp phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
- 5.1. Tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
- 5.2. Các cơ quan nhà nước Trung ương trong phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
- 5.3. Các cơ quan nhà nước địa phương trong phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
1. Tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
Theo quy định tại Điều 1 - Luật Trẻ em năm 2016: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”
Xâm hại tình dục trẻ em là một trong những vấn đề nhức nhối và là mối quan tâm hàng đầu của xã hội. Theo quy định Khoản 8 – Điều 4 – Luật Trẻ em năm 2016: “Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức”.
Tội phạm xâm hại tình dục trẻ em có thể hiểu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý, trái với các quy định của pháp luật hình sự và phải chịu trách nhiệm hình sự, xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và sự phát triển bình thường về mặt thể chất cũng như là tâm sinh lý của trẻ em.
2. Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
Cơ quan nhà nước là các tổ chức, cá nhân cấu thành nên bộ máy nhà nước. Các tổ chức, cá nhân này được thành lập theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà Nhà nước giao cho. Các cơ quan nhà nước là một trong những nhân tố đóng vai trò vô cùng quan trọng trong phòng ngừa tội phạm, đặc biệt là tội phạm xâm hại tình dục trẻ em, bởi đây là chủ thể đại diện cho nhà nước đưa ra những biện pháp để bảo vệ sự an toàn của người dân và xã hội.
Theo quy định tại Điều 5 – Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Như vậy, trách nhiệm phòng ngừa tội phạm đã được quy định thành điều luật, và việc các cơ quan nhà nước tham gia vào công cuộc phòng ngừa tội phạm, đặc biệt là tội phạm xâm hại tình dục trẻ em thể hiện vai trò tích cực của bộ máy nhà nước trong việc bảo vệ trẻ em – mầm non tương lai của đất nước
Nhìn chung, các cơ quan phải có sự phối hợp với nhau, dựa trên nhiệm vụ, quyền hạn của mình để có những biện pháp phòng ngừa đối với tội phạm xâm hại tình dục trẻ em. Bởi lẽ, loại tội phạm này có thể xuất hiện ở bất cứ đâu, ở bất kỳ thời điểm nào và sự an toàn của trẻ em luôn phải được đảm bảo bởi các thiết chế của bộ máy nhà nước .
3. Cơ sở pháp lý trong phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
Trên thế giới, vấn đề bảo vệ trẻ em đã được nghiên cứu và ghi nhận bởi rất nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế. Công ước Liên Hợp Quốc về Quyền Trẻ em là một trong những văn bản pháp lý quốc tế ghi nhận một cách trực tiếp vấn đề bảo vệ quyền của trẻ em. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á và thứ 2 trên thế giới phê chuẩn công ước này (28/02/1990). Điều này thể hiện sự quan tâm mạnh mẽ của Việt Nam đối với các vấn đề về quyền trẻ em
Tại Việt Nam, việc bảo vệ trẻ em đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Theoquy định tại Khoản 1 – Điều 37 của Hiến pháp: “…Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”.
Với quy định tại Hiến pháp năm 2013, nhà nước đã đặt vấn đề bảo vệ trẻ em như một nhiệm vụ bắt buộc và cấp thiết cần phải được thực hiện một cách nghiêm túc và hiệu quả. Và để làm được điều này, chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương cần có sự tham gia một cách triệt để, chất lượng và nhanh chóng.
4. Một số quy định hiện hành đối với các cơ quan nhà nước trong phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
Xâm hại tình dục trẻ em là một trong những hành vi vi phạm cực kỳ nguy hiểm cho xã hội. Và nhằm cụ thể hóa quy định tại Hiến pháp năm 2013, những quy định về hành vi cũng như trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đã được ghi nhận trong một số bộ luật:
- Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có 5 điều (Điều 142, 144, 145, 146, 147) về các tội xâm hại tình dục trẻ em được quy định tại chương XIV (các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người).
- Quy định ại Điều 5 – Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phòng ngừa tội phạm, bao gồm cả tội phạm xâm hại tình dục trẻ em được nhấn mạnh một cách cụ thể và rõ ràng hơn
- Nhằm cụ thể hóa cũng như chi tiết hóa các quy định liên quan đến trẻ em, đặc biệt là phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em, Luật Trẻ em năm 2016 đã được ban hành
- Luật Trẻ em là văn bản quy phạm pháp luật hướng đến đối tượng chính là trẻ em. Nó bao gồm những quy định về quyền, bổn phận của trẻ em và đặc biệt là các quy định về bảo vệ trẻ em, trong đó có bảo vệ trẻ em khỏi tội phạm xâm hại tình dục
- Luật Trẻ em quy định trẻ em có quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục: Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị xâm hại tình dục (Điều 25)
5. Thực tiễn các biện pháp phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
5.1. Tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
Các vụ án liên quan đến xâm hại tình dục trẻ em luôn là mối quan tâm hàng đầu của xã hội, đặc biệt là của những gia đình có con nhỏ. Bởi lẽ, loại tội phạm này có thể xuất hiện ở bất cứ đâu, bất kỳ thời điểm nào, ảnh hưởng cực kỳ nghiêm trọng đến sự phát triển của trẻ trong tương lai .
Từ 01/01/2015 đến 30/06/2019, cả nước đã phát hiện, xử lý 6432 vụ án về xâm hại tình dục trẻ em trên tổng số 8442 vụ xâm hại trẻ em (chiếm khoảng 75,4%). Theo báo cáo của Bộ Công an, từ 15/6/2019 đến 14/6/2021, toàn quốc phát hiện 3142 vụ xâm hại tình dục trẻ em, xâm hại 4009 trẻ em với 4440 đối tượng. Phần lớn nạn nhân trong các vụ xâm hại tình dục là trẻ em gái (chiếm trên 90% tổng số nạn nhân), đồng thời tội phạm thực hiện các hành vi này chủ yếu là nam giới trải dài trên nhiều độ tuổi, ngành nghề… Tính riêng năm 2020 đã phát hiện 1506 vụ xâm hại tình dục trẻ em trên tổng số 1945 vụ xâm hại trẻ em, chiếm khoảng 77,4% tổng số vụ xâm hại trẻ em . Trong năm 2021, với sự ảnh hưởng nghiêm trọng của COVID-19, tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em có xu hướng tăng lên. Trong 6 tháng đầu năm 2021, Tổng đài quốc gia bảo vệ trẻ em 111 tiếp nhận hỗ trợ 122 ca xâm hại tình dục trẻ em (tăng 13 ca so với cùng kỳ năm trước) .
Có thể thấy rằng, xâm hại tình dục trẻ em luôn chiếm tỷ lệ rất lớn trong số các vụ án xâm hại trẻ em. Điều này chứng tỏ mức độ nguy hiểm cũng như tần suất xuất hiện của loại tội phạm này đang ở mức đáng báo động và đe dọa nghiêm trọng đến sự an toàn của trẻ em .
5.2. Các cơ quan nhà nước Trung ương trong phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
Các cơ quan nhà nước Trung ương đóng vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em. Bên cạnh các văn bản luật được thông qua tại các kỳ họp Quốc hội, các văn bản quy phạm pháp luật khác được ban hành cũng là một trong những cách thức phòng ngừa cực kỳ quan trọng. Một số văn bản quy phạm pháp luật được các cơ quan nhà nước khác nhau ban hành nhằm phục vụ và đảm bảo công tác phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em :
- Nghị quyết số 121/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội về tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em
- Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi
- Quyết định số 1863/QĐ-TTg ngày 23/12/2019 của Thủ tướng về việc phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em giai đoạn 2020-2025
- Quyết định số 23/QĐ-TTg ngày 07/01/2021 của Thủ tướng về phê duyệt chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2021-2030
- Việc các cơ quan nhà nước Trung ương ban hành hàng loạt các nghị quyết, quyết định… thể hiện sự quyết tâm của bộ máy nhà nước trong phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em…
5.3. Các cơ quan nhà nước địa phương trong phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
Bảo vệ trẻ em là nhiệm vụ của cả xã hội, đặc biệt là tại các địa phương. Bởi lẽ, tội phạm xâm hại tình dục trẻ em là loại tội phạm diễn biến phức tạp, cần sự vào cuộc của tất cả hệ thống chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Trong đó, chính quyền địa phương đóng vai trò nòng cốt đối với việc phòng ngừa loại tội phạm này.
Mỗi địa phương sẽ có những biện pháp, cách thức áp dụng riêng nhằm phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em. Các biện pháp này có thể được thể hiện thông qua các quyết định, kế hoạch, hành động thực tế:
- Kế hoạch số 52/KH-UBND ngày 05/03/2021 của UBND Thành phố Hà Nội về phòng, chống tội xâm hại trẻ em và phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật liên quan đến người dưới 18 tuổi (giai đoạn 2021-2025)
- Kế hoạch số 58/KH-UBND ngày 24/02/2021 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế về tuyên truyền phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em trên mạng xã hội năm 2021
- Kế hoạch số 96/KH-UBND ngày 12/7/2021 của UBND tỉnh Thái Bình về phòng, chống tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
- Các kiến nghị phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em…
- Tại địa phương nơi em đang sinh sống, các biện pháp phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em cũng đã được triển khai bởi các cấp chính quyền (UBND phường, tổ dân phố…). Những buổi họp phổ biến các kế hoạch của UBND tỉnh cũng được tổ chức một cách đều đặn; các trường học cũng lồng ghép kiến thức liên quan đến phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em vào các buổi sinh hoạt ngoại khóa; các tấm poster tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ trẻ em khỏi những hành vi xâm hại tình dục cũng được đưa đến các gia đình, đặc biệt là những gia đình có con trẻ…
>> Tham khảo: Phòng ngừa tình huống tội phạm của tội phạm xâm hại tình dục trẻ em