1. Khái niệm trẻ em 

Công ước của Liên hiệp quốc về Quyền Trẻ em định nghĩa một đứa trẻ là "mọi con người dưới tuổi 18 trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn." Công nước này được 192 của 193 nước thành viên phê duyệt. Về mặt sinh học, một đứa trẻ là bất kỳ ai trong giai đoạn phát triển của tuổi thơ ấu, giữa sơ sinh và trưởng thành. Trẻ em nhìn chung có ít quyền hơn người lớn và được xếp vào nhóm không để đưa ra những quyết định quan trọng, và về mặt luật pháp phải luôn có người giám hộ.

Tại Việt Nam, trong Luật trẻ em năm 2016, ở Điều 1 có quy định “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”.

 

2. Hành vi xâm hại tình dục trẻ em

Theo định nghĩa của tổ chức thế giới WHO thì “Xâm hại tình dục trẻ em là sự lôi kéo trẻ em vào hoạt động tình dục mà đứa trẻ đó không có sự nhận thức đầy đủ, không có khả năng đồng ý với đầy đủ hiểu biết, hoặc khi đứa trẻ chưa phát triển đầy đủ và không thể đồng ý, hoặc vi phạm luật pháp hay các cấm kỵ của xã hội. Xâm hại tình dục trẻ em là hành vi giữa trẻ em với người lớn hoặc trẻ em khác mà về mặt tuổi tác hoặc phát triển có có quan hệ với trẻ em đó về trách nhiệm, niềm tin và quyền hạn. Hành vi này có mục đích làm vừa lòng hay thỏa mãn nhu cầu của người khác.”.   

Tại Việt Nam, dưới góc độ pháp lý, theo Luật Trẻ em năm 2016, xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức. 

 

3. Các yếu tố dẫn đến tội phạm xâm hại tình dục trẻ em

3.1. Các yếu tố từ phía người phạm tội

Các yếu tố từ phía tội phạm xâm hại tình dục trẻ em là những đặc điểm về mặt sinh học, xã hội, tâm lý của tội phạm, trực tiếp dẫn đến hành vi phạm tội. Các yếu tố từ phía người phạm tội thường ở các dạng:

  • Một số đối tượng mắc các hội chứng rối loạn tình dục, bao gồm những ham muốn tình dục đối với trẻ em dưới tuổi vị thành niên, thể hiện qua các hành động nhìn ngắm, âu yếm, vuốt ve, thủ dâm và cưỡng ép quan hệ tình dục cả đồng tính.
  • Các đối tượng tiếp xúc nhiều với các văn hóa phẩm không chính thống, phim ảnh bạo lực, khiêu dâm, xuất hiện tâm lý muốn “bắt chước” hoặc là để thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên đã lôi kéo, dụ dỗ hoặc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực đối với nạn nhân để thực hiện hành vi phạm tội.
  • Sự xuống cấp về đạo đức của một số đối tượng cũng là nguyên nhân chính gây ra tình trạng xâm hại tình dục trẻ em. Những người này thường là không nhận thức được trách nhiệm và bổn phận của mình đối với các thành viên khác trong xã hội, nhiều trường hợp coi thường pháp luật, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác. Các đối tượng này phần lớn có lối sống buông thả, sống gấp, lêu lổng thiếu tu dưỡng, chế ngự bản thân.

 

3.2. Các yếu tố từ phía nạn nhân

Yếu tố từ phía nạn nhân của tội phạm xâm hại tình dục trẻ em là những đặc điểm về mặt sinh học, tâm lý, xã hội của nạn nhân, đóng vai trò gián tiếp làm nảy sinh hành vi xâm hại tình dục đối với trẻ em từ chủ thể của tội phạm. Các yếu tố từ phía nạn nhân của loại tội phạm này thường ở những dạng sau:

  • Nạn nhân thiếu cảnh giác trong việc bảo vệ bản thân. Những người bị hại thuộc dạng này thường là các em gái tuổi mới lớn với nhận thức xã hội còn hạn chế, kỹ năng sống còn chưa được trang bị đầy đủ, nhất là những em sinh ra trong gia đình thiếu sự chăm sóc, quản lý, giáo dục của cha mẹ. 
  • Nạn nhân có lối sống không lành mạnh, dễ dãi và buông thả trong các quan hệ khác giới. Đây là hệ quả của việc giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục giới tính ở nhà trường, gia đình và cộng đồng còn chưa đầy đủ và hiệu quả; cũng như do ảnh hưởng của văn hóa phẩm kích động, bạo lực; phim, ảnh khiêu dâm, kích dục trên Internet, cùng với sự yếu kém về tính tự tu dưỡng của bản thân nạn nhân. 
  • Nhận thức của nạn nhân bị xâm hại tình dục còn hạn chế, không tố giác kịp thời để được cứu giúp, mà có thái độ cam chịu để cho hành vi xâm hại tình dục xảy ra nhiều lần. Nạn nhân có tâm lý e ngại, sợ ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của bản thân và gia đình hoặc sợ bị đe dọa nên không dám tố cáo với chính quyền địa phương, tổ chức đoàn thể để có biện pháp can thiệp kịp thời mà âm thầm chịu đựng cho đến khi không thể chịu đựng được nữa mới gửi đơn tố cáo hành vi xâm hại tình dục. Đây thường là những nạn nhân của các vụ án xâm hại tình dục nhạy cảm (vụ án mang tính chất loạn luân giữa những người cùng quan hệ huyết thống).

 

4. Pháp luật về thiết chế gia đình trong phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em

Thiết chế gia đình trong phòng ngừa tội phạm thể hiện trong pháp luật Việt Nam qua các quy phạm pháp luật điều chỉnh về các quan hệ xã hội xoay quanh gia đình, các văn bản chỉ đạo do Đảng và nhà nước điều chỉnh, cũng như các công ước quốc tế mà Việt Nam tham dự.

Trong Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em, có hiệu lực từ ngày 02/9/1990 đã nêu rõ trách nhiệm của các quốc gia, các tổ chức xã hội, trong đó gia đình đóng vai trò đặc biệt quan trọng: “Gia đình với tư cách là nhóm xã hội cơ bản và môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của tất cả các thành viên gia đình, đặc biệt là trẻ em cần có sự bảo vệ và giúp đỡ cần thiết”. Điều 18 của Công ước đã khẳng định, những lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là điều quan tâm cơ bản của cha mẹ, hoặc người nuôi dưỡng. Cả cha và mẹ đều có trách nhiệm chung trong việc nuôi dưỡng và phát triển trẻ em, và họ phải là người có trách nhiệm hàng đầu trong việc nuôi dưỡng và phát triển trẻ em, để trẻ em được an toàn và phát triển. Điều 19 Công ước cũng nêu rõ, các gia đình phải “bảo vệ trẻ em khỏi tất cả các hình thức bạo lực về thể chất hoặc tinh thần, bị tổn thương hay bị lạm dụng, bị bỏ mặc hoặc chăm sóc xao nhãng, bị ngược đãi hoặc bóc lột, gồm cả lạm dụng tình dục, trong khi trẻ em vẫn nằm trong vòng tay chăm sóc của cha hay mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ”.

Ở Việt Nam trong những năm qua, Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều chính sách, văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến trách nhiệm của gia đình trong việc bảo vệ các quyền trẻ em nói chung, và các quyền liên quan đến phòng chống xâm hại trẻ em nói riêng. Điều 4 Luật Trẻ em (2016) đã khẳng định: Xâm hại trẻ em là hành vi gây tổn hại về thể chất, tình cảm, tâm lý, danh dự, nhân phẩm trẻ em dưới các hình thức bạo lực, bóc lột, xâm hại tình dục, mua bán, bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em và các hình thức gây tổn hại khác.

Theo pháp luật Việt Nam, trẻ em có các quyền như: Quyền được sống, được bảo vệ tính mạng, được đảm bảo tốt nhất các điều kiện sống và phát triển; Quyền được khai sinh và có quốc tịch; Quyền được chăm sóc sức khỏe; Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng; Quyền được giáo dục, học tập và phát triển năng khiếu; Quyền được vui chơi giải trí; Quyền được sống chung với cha mẹ; Quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị xâm hại tình dục; không bị bóc lột sức lao động; không bị bạo lực,v.v..

Trong năm 2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 23/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2021 - 2030, trong đó đẩy mạnh vai trò của gia đình trong quá trình thực hiện quyền trẻ em.

Như vậy, căn cứ vào các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Quyền Trẻ em, Luật Trẻ em… có thể khẳng định, gia đình chính là chủ thể quan trọng nhất chịu trách nhiệm trong việc thực hiện quyền trẻ em, trong đó có quyền bảo vệ trẻ em khỏi các hành vi xâm hại tình dục.

 

5. Một số kiến nghị về phòng ngừa tội phạm xâm hại tình dục trẻ em

Trong quá trình thực hiện các vai trò, trách nhiệm của gia đình đối với bảo vệ trẻ em khỏi các nguy cơ, rủi ro về xâm hại tình dục, các gia đình Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó, đáng quan tâm nhất là sự thiếu hụt các kiến thức, kỹ năng cần thiết để trang bị cho trẻ em nhận biết được các nguy cơ, có kỹ năng tự bảo vệ bản thân khỏi các hành vi xâm hại tình dục. 

Để phòng chống xâm hại trẻ em cần phải có sự vào cuộc của các ban ngành chức năng, đoàn thể, song hơn hết cần phát huy vai trò giáo dục trẻ ngay tại gia đình. Bởi gia đình là môi trường sống đầu tiên, là nơi hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người cũng như là chốn bình yên nhất của mỗi người. Do đó, mỗi gia đình, thành viên gia đình, đặc biệt là những bậc cha mẹ trước hết phải hiểu rõ vai trò, trách nhiệm của bản thân trong việc phòng, chống xâm hại cho con, cháu của mình. 

Gia đình cũng cần phối hợp với nhà trường, hướng dẫn cho con, cháu những kiến thức, kỹ năng trong việc nhận diện, phòng, chống các hành vi xâm hại trẻ em, đồng thời, cha mẹ không nên né tránh mà cần thường xuyên trò chuyện với con cái về những vấn đề tế nhị, dạy cho trẻ em biết rằng không ai được chạm vào “chỗ riêng tư” của trẻ; dạy cho trẻ biết những hành vi lạm dụng tình dục là phạm pháp và quyền mình được bảo vệ và tự bảo vệ. Trẻ có quyền từ chối những cái ôm hoặc những tiếp xúc gây khó chịu; cần dạy trẻ không bao giờ được nhận quà của người lạ và đi vào chỗ kín, nơi vắng vẻ với một ai nếu không có sự đồng ý của bố mẹ. Trang bị cho trẻ em cách phòng vệ trước những đối tượng có ý định thực hiện hành vi đồi bại…

Bên cạnh đó, gia đình cũng là những người gần gũi trẻ em nhất để có thể nhận ra những thay đổi bất thường trong sinh hoạt thường ngày của con như: ăn uống, thái độ né tránh người khác; khóc, la hét, hoảng hốt bật dậy trong đêm, ai động vào thì vung chân, tay loạn xạ… Nhận biết những dấu hiệu khác thường, gia đình có thể chia sẻ, giúp trẻ vượt qua được những giai đoạn khó khăn, phòng ngừa những hậu quả nghiêm trọng và ảnh hưởng đến cuộc sống và tương lai sau này của trẻ.

>> Xem thêm: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em theo Bộ luật Hình sự 2015