Mục lục bài viết
1. Khái quát chung
Các yếu tố bảo đảm QBC của bị can trong giai đoạn ĐTVAHS là những điều kiện để CQĐT và những chủ thể có liên quan thực hiện được đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm cho bị can được thực hiện đầy đủ QBC của mình theo quy định của pháp luật. Với tính chất như vậy, việc bảo đảm thực hiện QBC của bị can trong giai đoạn ĐTVAHS phụ thuộc vào các yếu tố sau đây:
2. Yếu tố pháp lý
Cơ sở pháp lý của việc bảo đảm thực hiện QBC của người bị buộc tội được quy định trong tất cả các bản Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam. Xuất phát từ quy định của Hiến pháp, BLTTHS không chỉ ghi nhận QBC của bị can mà còn quy định về trách nhiệm của cơ quan THTT nói chung, CQĐT nói riêng trong việc bảo đảm thực hiện QBC.
Cùng với các quy định mang tính nguyên tắc, BLTTHS còn có các quy định khác liên quan đến việc bảo đảm QBC của bị can như Điều 36 (nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT), Điều 37 (nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của ĐTV), Điều 41 (nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng, Phó viện trưởng VKS), Điều 42 (nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của kiểm sát viên). Trong đó, đặc biệt quan trọng là quy định về QBC của bị can khi tham gia tố tụng. Theo đó, bị can có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. CQĐT, Viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can thực hiện quyền bào chữa của họ. Đối với một số trường hợp đặc biệt, BLTTHS quy định nếu bị can hoặc cha, mẹ, người đại diện hợp pháp của họ không có yêu cầu mời NBC thì cơ quan THTT vẫn phải bảo đảm thực hiện QBC cho họ thông qua việc yêu cầu chỉ định NBC theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2015.
Một cơ chế bảo đảm pháp lý khác đối với việc thực hiện QBC của bị can đó là quy định về những hình thức xử lý mang tính chế tài đối với cơ quan, người THTT khi vi phạm quy định về bảo đảm QBC của bị can: Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung do vi phạm thủ tục tố tụng liên quan đến việc bảo đảm QBC hay hủy án để điều tra lại hoặc xét xử lại.
Cùng với pháp luật về TTHS thì các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan cũng có những quy định nhằm bảo đảm thực hiện QBC của bị can như: Luật Trợ giúp pháp lý; Luật Luật sư; Luật Tổ chức CQĐT hình sự; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam. Các văn bản này quy định cụ thể về trách nhiệm của người THTT trong việc tạo điều kiện thuận lợi để bị can được thực hiện đầy đủ QBC của mình.
3. Yếu tố con người
Hiệu quả của toàn bộ giai đoạn ĐTVAHS nói chung, bảo đảm thực hiện QBC của bị can trong giai đoạn ĐTVAHS nói riêng luôn phụ thuộc trực tiếp vào cách thức tổ chức thực hiện các hoạt động điều tra của CQĐT và các ĐTV thụ lý vụ án. Do đó, yếu tố con người trong thực thi công vụ vẫn là yếu tố then chốt của mọi vấn đề. Để có thể đưa các quy định pháp luật nói chung, các quy định của pháp luật TTHS về quyền QBC của bị can vào thực tiễn đời sống, trước hết phải bắt đầu từ nhận thức của mỗi cán bộ, lãnh đạo CQĐT.
Thực tế cho thấy, CQĐT và ĐTV dù có khách quan, công tâm nhưng họ vẫn là cơ quan buộc tội, chứng minh tội phạm và người phạm tội. Do đó, công việc chính là tập trung vào việc thu thập các tài liệu, chứng cứ để buộc tội. Nói cách khác là thực hiện các hoạt động nhằm chống lại người bị buộc tội. Theo đó, rất có thể họ sẽ bỏ qua những tình tiết có lợi cho bị can như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng các điều khoản của BLHS về tội nhẹ hơn.
Chính vì vậy, CQĐT và ĐTV phải là những chủ thể đầu tiên nhận thức đầy đủ và toàn diện về sự cần thiết, ý nghĩa, vai trò của việc bảo đảm thực hiện QBC của bị can. Nhận thức đó sẽ giúp việc giải quyết vụ án được thực hiện khách quan, toàn diện và đầy đủ. Khi nhận thức của CQĐT và ĐTV thực sự đầy đủ và sâu sắc, họ sẽ tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về bảo đảm QBC của người bị buộc tội, tạo điều kiện cho người bị buộc tội thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong tố tụng. CQĐT, ĐTV phải luôn nhận thức sâu sắc về ý nghĩa của việc cung cấp thông tin đầy đủ về tư cách tố tụng đối với bị can trong giai đoạn điều tra là một việc làm bắt buộc. CQĐT, ĐTV phải luôn chú ý cung cấp đầy đủ lý do, căn cứ, quyền và nghĩa vụ cho bị can khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với họ. CQĐT, ĐTV phải nhận thức rằng, quyền bảo vệ các lợi ích hợp pháp của bị can trong giai đoạn điều tra là một nhu cầu tất yếu và là quyền cơ bản của con người. Sự tham gia của NBC là yếu tố khách quan để giải quyết vụ án được chính xác, đồng thời cũng là cơ sở để khẳng định uy tín và trách nhiệm của CQĐT trước pháp luật. NBC không đồng nghĩa với việc chỉ đứng về phía người buộc tội mà việc tham gia của họ trong tiến trình điều tra cũng sẽ có những tác dụng quan trọng giúp ĐTV, cán bộ điều tra nhìn nhận vụ việc khách quan, toàn diện hơn, hạn chế tối đa các sai sót đáng tiếc có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của chính ĐTV và CQĐT.
Về phía của bị can, nhận thức của đa số họ về vị trí, vai trò của luật sư trong việc tư vấn, giúp đỡ về mặt pháp lý chưa thật sự đầy đủ, toàn diện và sâu sắc; chưa hiểu rõ về quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình. Hơn nữa hiện nay, về cơ bản các đối tượng phạm tội thường có điều kiện kinh tế còn khó khăn chưa thể bảo đảm việc mời luật sư bào chữa cho mình vì chi phí mời luật sư hiện nay còn khá cao đối với mặt bằng chung của xã hội, đây cũng là một trong những nguyên nhân không nhỏ khiến số lượng vụ án hình sự có luật sư tham gia còn thấp. Một số trường hợp khi bị can thuộc diện chỉ định người bào chữa, được bào chữa miễn phí cũng kiên quyết từ chối việc có luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình do chưa hiểu rõ về quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
4. Yếu tố cơ chế kiểm sát việc thực thi pháp luật
Để đảm bảo QBC của bị can trong giai đoạn ĐTVAHS thì ngoài việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý thì yêu cầu hình thành và hoàn thiện các cơ chế đảm bảo thực hiện cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Chính vì vậy, cần xây dựng, đảm bảo các cơ chế hoạt động độc lập và sự đối trọng cần thiết giữa các CQĐT, công tố, xét xử. Sự đối trọng và độc lập trong hoạt động tố tụng khiến các cơ quan thực thi pháp luật thận trọng hơn sẽ là cơ chế kiểm soát tốt nhất quá trình giải quyết vụ án cũng như bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Việc đảm bảo và nâng cao vai trò giám sát của các cơ quan đại diện nhân dân trong quá trình điều tra vụ án cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng tạo điều kiện CQĐT phải nhìn nhận lại hoạt động điều tra của mình theo hướng tích cực. Từ đó có nhận thức đúng về quyền của người bị buộc tội theo tiêu chí quốc tế và đúng theo quy định của pháp luật
Cùng với các cơ chế kiểm soát bên ngoài, thì việc xây dựng và tổ chức thực thi các cơ chế kiểm soát bên trong cũng có những ý nghĩa rất quan trọng. Theo đó, CQĐT, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng, ĐTV, cán bộ điều tra cần tuân thủ đúng các quy định về chức năng, nhiệm vụ, phân công phân cấp trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Cơ quan cấp trên phải thường xuyên thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với cơ quan cấp dưới trong quá trình thực thi công vụ. CQĐT cấp Bộ phải tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của CQĐT ở Công an cấp tỉnh, Công an cấp huyện. Khi phát hiện các dấu hiệu sai phạm, cần chủ động có biện pháp cụ thể để xử lý phù hợp như đình chỉ, xử lý về tổ chức, hành chính nhằm hạn chế tối đa hậu quả.
5. Yếu tố cơ sở vật chất, kỹ thuật, tài chính
Theo quy định của pháp luật, bị can có một số quyền tố tụng như: Đề nghị giám định, định giá tài sản; người phiên dịch, người dịch thuật; đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa. Đồng thời để thực hiện QBC thì NBC cũng được pháp luật cho phép tham gia lấy lời khai, hỏi cung bị can, gặp bị can. Để thực hiện những quyền nói trên mà không làm ảnh hưởng đến các yêu cầu của hoạt động ĐTHS như chống thông cung; làm lộ bí mật điều tra; bảo đảm an toàn cho NBC đòi hỏi phải đáp ứng được những điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật. Đối với cơ sở giam giữ, điều kiện đó phải là nơi dành riêng cho các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với những trang thiết bị cần thiết đề kiểm tra, giám sát, phòng ngừa vi phạm pháp luật có thể xảy ra. Đối với CQĐT, phải có những trang thiết bị cần thiết và nguồn tài chính dành cho việc sao chụp hồ sơ vụ án, thiết bị ghi âm, ghi hình.
Đặc biệt, đối với những trường hợp bị can thuộc diện cần chỉ định NBC thì CQĐT cần có nguồn kinh phí để chi trả theo định mức quy định của pháp luật. Nếu không có kinh phí thì CQĐT sẽ không thể mời luật sư và theo đó vụ án sẽ bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Trong những trường hợp này, nguồn kinh phí chi trả trở thành yêu cầu bắt buộc. Mức thù lao và cơ chế chi trả thù lao có ảnh hưởng lớn đến mức độ cũng như chất lượng tham gia tố tụng của NBC trong những vụ án chỉ định.
6. Ý nghĩa của bảm quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Bảo đảm quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự góp phần nêu cao trách nhiệm của cơ quan điều tra, điều tra viên, người có thẩm quyền điều tra trong quá trình điều tra vụ án hình sự BLTTHS đã xác định nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ QCN, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, trong đó xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền THTT: “Phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm hoặc không còn cần thiết” (Điều 8 BLTTHS năm 2015). Để bảo đảm QCN, QCD khi áp dụng biện pháp tố tụng, đặc biệt là các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế trên thực tế cần phải hình thành cơ chế dựa trên ba yếu tố: Hệ thống các quy phạm pháp luật; các yếu tố thực thi pháp luật và cơ chế kiểm soát thực thi pháp luật.
BLTTHS năm 2015 đã có các quy định tương đối đầy đủ về quyền của người bị buộc tội trong quá trình điều tra vụ án hình sự, trong đó có QBC của bị can. Việc hình thành các quy định như vậy, tất nhiên sẽ đòi hỏi các cơ quan, người có thẩm quyền THTT (CQĐT, ĐTV) phải thực hiện trên thực tế. Quy định về bảo đảm QBC của bị can càng cụ thể, rõ ràng thì càng đòi hỏi các cơ quan, người có thẩm quyền THTT phải nâng cao trách nhiệm thực thi công vụ của mình. Nói cách khác, các yếu tố về trình độ, năng lực, khách quan, chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình đỏi hỏi phải được nâng lên.
Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của mình, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ và mục đích TTHS đặt ra, trong quá trình tiến hành tố tụng, CQĐT, người có thẩm quyền THTT không chỉ phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của BLTTHS, mà phải nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của pháp luật khác có liên quan, trong đó đặc biệt chú ý tuân thủ các quy định về căn cứ áp dụng, thẩm quyền áp dụng, trình tự, thủ tục và thời hạn áp dụng. Chỉ khi có đủ các căn cứ theo quy định của BLTTHS thì CQĐT, người có thẩm quyền mới được tiến hành áp dụng các biện pháp ngăn chặn, bảo đảm đúng trình tự, thủ tục tố tụng trong thời hạn theo quy định. Khi thấy các căn cứ áp dụng không còn, việc áp dụng biện pháp không còn cần thiết hoặc thời hạn áp dụng biện pháp đã hết thì phải chấm dứt ngay việc áp dụng biện pháp ngăn chăn. Cơ quan, người có thẩm quyền THTT phải chịu trách nhiệm về hành vi, quyết định của mình. Người vi phạm pháp luật trong việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự góp phần bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự. Để bảo đảm quyền con người trong TTHS thì BLTTHS đã quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội để những người này biết, trước hết để tự bảo vệ quyền của mình, đồng thời khi đã quy định quyền của người tham gia TTHS thì gắn với đó là nghĩa vụ của cơ quan, người có thẩm quyền THTT có trách nhiệm bảo đảm các quyền đó theo quy định của pháp luật.
Trên thực tế, bị can thuộc nhóm người được coi là “yếu thế” khi tham gia tố tụng, dễ bị tổn thương, quyền công dân của họ dễ bị xâm hại. Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhóm người này, BLTTHS đã bổ sung nhiều quy định mới về quyền của họ trong TTHS. Với những quy định này sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử nói chung, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm QBC nói riêng. Khi người bị buộc tội biết rõ, cụ thể về các quyền mà mình được hưởng thì yêu cầu đặt ra với người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là phải thu thập đầy đủ chứng cứ buộc tội và gỡ tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, đặc biệt trong áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Mọi hoạt động này đòi hỏi phải được thực hiện vô tư, khách quan, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời hạn tố tụng hình sự, bảo đảm tính công bằng, chính xác, không để lọt tội phạm và làm oan người vô tội, tôn trọng và bảo đảm QBC của người bị buộc tội.
Bảo đảm quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự góp phần đảm bảo tính trung thực, khách quan, toàn diện trong điều tra vụ án hình sự. Với tư cách đại diện cho công quyền, cơ quan, người có thẩm quyền THTT phải thực hiện các nhiệm vụ của TTHS đặt ra, đó là: “Bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm” (Điều 2 BLTTHS năm 2015). Đây là một trong những yêu cầu bắt buộc khi cơ quan THTT thực hiện nhiệm vụ, đòi hỏi các chủ thể này phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, khách quan, vô tư trong khi thi hành nhiệm vụ, trước hết là để bảo vệ sự bình yên của xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, đồng thời bảo đảm quyền con người, quyền công dân của người bị buộc tội theo quy định của pháp luật, loại trừ các hành vi, quyết định trái pháp luật hoặc không cần thiết.
Bảo đảm sự vô tư của người có thẩm quyền THTT là một trong những nguyên tắc cơ bản được quy định trong BLTTHS: “Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng...không được tham gia tố tụng nếu có lý do cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ” (Điều 21 BLTTHS năm 2015). CQĐT, ĐTV và người có thẩm quyền THTT thay mặt Nhà nước có trách nhiệm giải quyết vụ án, áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Chính vì vậy, việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân sẽ góp phần quan trọng đảm bảo sự vô tư của họ trong quá trình điều tra. Việc quy định các nội dung về QBC của bị can sẽ giúp quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế được công tâm. CQĐT, ĐTV phải dựa vào các quy định của BLTTHS làm căn cứ, không thiên vị hay vụ lợi trong áp dụng biện pháp ngăn chặn.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty Luật Minh Khuê