Mục lục bài viết
1. Lý luận chung về phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế
Đối với các chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế thì cách thức triệt để và chủ động để tránh hiện tượng xung đột pháp luật cũng như các tranh chấp có liên quan, đó là thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng và cơ quan giải quyết tranh chấp ngay từ khi giao kết hợp đồng.
Đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế rất đặc biệt là luôn có yếu tố nước ngoài nghĩa là không một quốc gia nào có thể đơn phương ban hành ra các quy định pháp luật giải quyết vấn đề quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mà nó luôn liên quan đến nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Chính đối tượng điều chỉnh đặc thù này của tư pháp quốc tế có ý nghĩa quyết định đến phương pháp điều chỉnh của tư pháp quốc tế: phương pháp thực chất và phương pháp xung đột.
Pháp luật quốc gia cũng như các điều ước quốc tế có liên quan đều khẳng định quyền tự do lựa chọn luật áp dụng và lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp của các bên tham gia vào một mối quan hệ pháp luật kinh doanh quốc tế. Quyền này được thừa nhận trong nhiều văn bản pháp luật ở Việt Nam điều chỉnh các loại hợp đồng khác nhau như Bộ luật dân sự năm 2015, Luật thương mại năm 2005, Bộ luật hàng hải năm 2015.
Mặc dù phương pháp xung đột có những hạn chế nhất định nhưng có thể nói phương pháp xung đột là phương pháp điều chỉnh chủ yếu của tư pháp quốc tế vì cả lý luận và thực tiễn đã chứng minh việc xây dựng quy phạm xung đột, kể cả quy phạm xung đột thống nhất trong các điều ước quốc tế là dễ dàng hơn việc xây dựng các quy phạm thực chất. Do đặc thù của tư pháp quốc tế là điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước vì thế trong tư pháp quốc tế cũng có những phương pháp đặc thù để điều chỉnh các quan hệ này. Chỉ có hai phương pháp là phương pháp thực chất và phương pháp xung đột được sử dụng để điều chỉnh trong Tư pháp quốc tế.
Phương pháp xung đột được xem là phương pháp chủ yếu và quan trọng nhất trong Tư pháp quốc tế vì xuất phát từ lý do về các điều kiện về lịch sử, dân tộc, trình độ phát triển và lợi ích… của các quốc gia còn có sự khác biệt thậm chí là khác xa nhau, vì vậy việc nhất thể hóa các quy phạm thực chất sẽ rất khó khăn nhưng thống nhất hóa các quy phạm xung đột thì lại dễ dàng hơn từ đó ta giải quyết các xung đột pháp luật một cách hữu hiệu và thực tế.
2. Phương pháp dùng quy phạm xung đột
Phương pháp dùng quy phạm xung đột bắt nguồn từ các công trình nghiên cứu của Friedrich Carl von Savigny, một nhà luật gia người Đức rất nổi tiếng và có ảnh hưởng lớn vào thế kỷ 18 trong giới luật gia với học thuyết ‘Luật của trái chủ’. Sau đó phương pháp này được sử dụng phổ biến để giải quyết xung đột trong tư pháp quốc tế và còn được gọi là ‘Luật xung đột’ (Conflitct of laws) tại các nước theo hệ thống luật Anh – Mỹ. Phương pháp này được áp dụng chủ yếu và rộng rãi như một công cụ để thiết lập và bảo đảm trật tự pháp lý trong các quan hệ do tư pháp quốc tế điều chỉnh. Hiện nay phương pháp dùng quy phạm xung đột được sử dụng cả trong hệ thống Common Law hay hệ thống Civil Law.
Trước hết cần phải hiểu khái niệm về quy phạm xung đột. Quy phạm xung đột là quy phạm chỉ ra hệ thống pháp luật nào trong đó các hệ thống pháp luật đang xung đột được áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài trong từng trường hợp cụ thể.
Quy phạm xung đột không trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật mà chỉ đưa giải pháp gián tiếp cho việc giải quyết sự xung đột về mặt quyền lợi giữa các chủ thể đó. Có thể nói, quy phạm xung đột luôn mang tính chất ‘dẫn chiếu’ khi nó thực hiện nhiệm vụ hướng dẫn việc lựa chọn một cách khách quan nguồn luật có mối liên quan nhất và có hiệu lực áp dụng nhất cho loại quan hệ pháp luật nhất định. Quy phạm xung đột khi dẫn chiếu tới việc áp dụng luật thì luật được áp dụng có thể là luật của nước nơi có Tòa án giải quyết tranh chấp (lex fori) hoặc là luật của một nước khác.
Khác với các quy phạm pháp luật thông thường nói chung được cấu thành bởi ba bộ phận là giả định, quy định và chế tài, quy phạm xung đột về cơ cấu chỉ bao gồm hai bộ phận là phạm vi và lệ thuộc. Đây là hai bộ phận không thể thiếu trong mỗi quy phạm xung đột. Phần phạm vi là phần quy định mối quan hệ cụ thể nào chịu sự điều chỉnh của quy phạm xung đột. Phần hệ thuộc là phần quy định rõ luật nước nào sẽ được áp dụng để giải quyết xung đột trong mối quan hệ đã được nêu tại phần phạm vi.
Phương pháp xung đột được hình thành và xây dựng trên nền tảng hệ thống các quy phạm xung đột của quốc gia. Các quốc gia tự ban hành các quy phạm xung đột trong hệ thống pháp luật nước mình để hướng dẫn chọn luật áp dụng để chủ động trong việc điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế trong khi chưa xây dựng được đầy đủ các quy phạm thực chất thống nhất. Các nước cùng nhau kí kết các điều ước quốc tế để xây dựng lên các quy phạm xung đột thống nhất.
3.Phương pháp thống nhất luật thực chất
Quy phạm pháp luật thực chất hay còn gọi là quy phạm thực chất là những quy phạm trực tiếp giải quyết các quan hệ pháp luật mang tính quốc tế, trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể đối với các chủ thể tham gia các quan hệ này.
Thống nhất luật thực chất là việc các nước cùng nhau thỏa thuận xây dựng các quy phạm thực chất để điều chỉnh các quan hệ kinh doanh quốc tế. Thống nhất luật thực chất được tiến hành bằng cách ký kết các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương có hiệu lực đối với các nước thành viên.
Từ những thập kỷ 20 của thế kỷ XX đã xuất hiện rất nhiều điều ước thương mại quốc tế chứa đựng các quy phạm thực chất thống nhất ký kết và thực hiện như một xu hướng phát triển kinh tế tất yếu của thể giới. Một số điều ước quốc tế trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế như Công ước La Haye năm 1964 về mua bán quốc tế các động sản hữu hình, Công ước của Liên hợp quốc tế về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Công ước viên năm 1980).
Trước đây, Việt Nam có tham gia vào một điều ước quốc tế đa phương thống nhất luật thực chất về hợp đồng, đó là Điều kiện giao hàng chung được thông qua năm 1958 trong Khuôn khổ Hội đồng tương trợ kinh tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa vào thời kỳ bấy giờ (khối SEV). Điều kiện giao hàng chung này được áp dụng một cách bắt buộc và tự động cho tất cả các hợp đồng mua bán giữa các doanh nghiệp thuộc các quốc gia của SEV. Nội dung của Điều kiện giao hàng chung là các quy phạm thực chất thống nhất, điều chỉnh các vấn đề về hợp đồng mua bán như thành lập hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên, vi phạm hợp đồng, các chế tài, bất khả kháng,… Khi Hội đồng tương trợ kinh tế tan rã vào năm 1991, Điều kiện giao hàng chung này cũng chấm dứt hiệu lực.
Phương pháp được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy phạm thực chất trực tiếp giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, điều này có ý nghĩa là nó trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ rõ ràng giữa các bên tham gia. Các quy phạm thực chất thống nhất trong các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế.
– Các quy phạm thực chất thống nhất hiện nay chủ yếu có trong điều ước quốc tế về các lĩnh vực thương mại, hằng hải quốc gia hoặc các lĩnh vực quyền sở hữu công nghiệp: Công ước Becnơ 1886 về bảo vệ quyền tác giả; Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hoá quốc tế.
– Các quy phạm thực chất còn được ghi nhận trong các tập quán quốc tế nhất là trong lĩnh vực thương mại và hằng hải quốc tế: Tập hợp các quy tắc tập quán INCOTERMS 2000 về các điều kiện mua bán mua bán hàng hoá quốc tế.
– Các quy phạm thực chất trong luật của quốc gia ( luật quốc nội): quy phạm thực chất được quy định trong luật đầu tư, luật về chuyển giao công nghệ…
Ngoài ra trong trường hợp khi tư pháp quốc tế xảy ra không có quy phạm thực chất và quy phạm xung đột, vấn đề điều chỉnh quan hệ này được thực hiện dựa trên nguyên tắc luật điều chỉnh các quan hệ xã hội. Theo quan điểm chung hiện nay, trong trường hợp quan hệ tư pháp quốc tế xảy ra mà không có quy phạm thực chất thống nhất cũng như quy phạm xung đột nếu các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ đó phát sinh trên cơ sở pháp luật nước nào thì áp dụng pháp luật nước đó trừ khi hậu quả của việc áp dụng đó trái với những nguyên tắc kể trên.
4.Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật Việt Nam?
Về nguyên tắc chung giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế: Nhà nước đảm bảo quyền thừa kế và bình đẳng về quyền thừa kế mọi cá nhân đều có quyền thừa kế và để lại di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật.
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong việc thừa kế, quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài được pháp luật dân sự về thừa kế điều chỉnh.
Thừa kế được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết
Nguyên tắc này được quy định tại Khoản 1 Điều 680 Bộ luật dân sự 2015: “Thừa kế được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết.”
Theo nguyên tắc này, thừa kế được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết. Đây là một quy phạm xung đột, quy phạm này điều chỉnh hệ thừa kế theo pháp luật.
Như vậy các vấn đề về thừa kế theo pháp luật như xác định hàng thừa kế, diện thừa kế, thời điểm mở thừa kế, quyền và nghĩa vụ của người thừa kế tài sản thừa kế đều được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết.
Việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó
Năng lực lập di chúc, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc được xác định theo pháp luật của nước mà người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm lập, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc
5. Cách giải quyết xung đột pháp luật
Về mặt lý luận cũng như thực tế, tất cả các quốc gia đều quan tâm xây dựng pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, nhằm bảo vệ các lợi ích của mình (thực chất là lợi ích của giai cấp cầm quyền ở quốc gia đó) kể cả trường hợp quan hệ xã hội có yếu tô' nưốc ngoài. Khi quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài phát sinh hiện tượng xung đột pháp luật, các quốc gia cũng đều quan tâm giải quyết bằng một cách nào đó nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của các bên đương sự và thúc đẩy giao lưu dân sự quốc tế phát triển vì lợi ích của chính quốc gia mình.
Chúng ta có thể rút rá kết luận rằng, áp dụng các quy phạm của tư pháp quốc tế chính là để giải quyết xung đột pháp luật. Nói cách khác, có bao nhiêu loại quy phạm của tư pháp quốc tế thì có bấy nhiêu cách giải quyết xung đột pháp luật.
Nếu quan niệm tư pháp quốc tế chỉ bao gồm một loại quy phạm là quy phạm xung đột, thì chỉ có một cách giải quyết xung đột pháp luật là áp dụng quy phạm xung đột. Nếu quan niệm tư pháp quốc tế gồm hai loại quy phạm là quy phạm - thực chất và quy phạm xung đột, thì sẽ có hai cách giải quyết xung đột pháp luật: Cách thứ nhất là áp dụng quy phạm thực chất; Cách thứ hai là áp dụng quy phạm xung đột.
Nếu cho rằng, quy phạm thực chất của tư pháp quốc tế chỉ bao gồm quy phạm thực chất thống nhất, không bao gồm các quy phạm thực chất do từng quốc gia tự xây dựng, để áp dụng trực tiếp vào các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài mà không cần chỉ dẫn của quy phạm xung đột, thì khi nói giải quyết xung đột bằng cách áp dụng quy phạm thực chấtthống nhất, chúng ta phải loại trừ các quy phạm thực chất do từng quốc gia tự xây dựng nói trên.
Cho đến nay, trong khoa học về tư pháp quốc tế ở Việt Nam chưa có quan điểm thống nhất về phương pháp giải quyết xung đột pháp luật. Có ý kiến cho rằng chỉ có hai phương pháp giải quyết xung đột pháp luật là xây dựng các quy phạm thực chất và áp dụng các quy phạm xung đột. Ý kiến ủng hộ quan điểm này đã không phân biệt rõ phải giải quyết xung đột pháp luật bằng quy phạm thực chất thông nhất hay bằng cả quy phạm thực chất do từng quốc gia tự xây dựng, không chỉ ra cách xử lý trong trường hợp không có quy phạm thực chất và cũng không có cả quy phạm xung đột.
Thông thường pháp luật các quốc gia không chỉ rõ có bao, nhiêu cách cụ thể để giải quyết xung đột pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nưốc ngoài. Pháp luật các quốc gia chỉ quy định những trường hợp áp dụng các quy định của điều ước quốc tế mà qúôc gia ký kết hoặc tham gia, các tập quán quốc tế mà quốc gia chấp nhận, và quy định việc chọn pháp luật của nước mình hay của nước ngoài để áp dụng.
Vấn đề này cũng được xử lý trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995 (Khoản 4 của Điều 827) như sau: “ Trong trường hợp quan hệ dân sự có yếu tố nưốc ngoài không được Bộ luật này, các văn bản pháp luật khác của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc hợp đồng dân sự giữa các bên điều chỉnh, thì áp dụng tập quán quốc tế...”
Theo tinh thần của Bộ luật Dân sự nói chung và của khoản 4 của Điều 827 này nói riêng, chúng ta hiểu Bộ luật Dân sự năm 1995 cho phép áp dụng ba cách giải quyết xung đột pháp luật trong việc điều chỉnh các mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài: áp dụng quy phạm thực chẩt thống nhất: áp dụng quy phạm xung đột; nếu không có cả hai loại quy phạm này'thì áp dụng tập quán quốc tế.
Theo tinh thần của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 và các văn bản pháp luật khác của Việt Nam, không có vấn đề áp dụng trực tiếp các quy phạm thực chất do Việt Nam tự ban hành vào các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài mà không thông qua sự chỉ dẫn của quy phạm xung đột.
Về cơ bản có thể tán thành tinh thần nêu trên của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995. Tuy nhiên, việc áp dụng tập quán quốc tế trong lĩnh vực giải quyết xung đột pháp luật khi không có cả hai loại quy phạm thực chất thốhg nhất và quy phạm xung đột cần phải được xem xét để hoàn thiện thêm. Bởi vì, xác định được sự tồn tại của tập quán này hay tập quán khác trong lĩnh vực này là việc rất phức tạp và dễ gây tranh cãi, và cũng phải lường trưốc có thể có những trường hợp không xác định được.
Vì vậy, nên khẳng định rõ các cách giải quyết xung đột pháp luật như sau:
Xây dựng và áp dụng các quy phạm thực chất thống nhất
Quy phạm thực chất thốhg nhất là quy phạm do các quốc gia thoả thuận xây dựng bằng cách ký kết các điều ước quốc tế hoặc cùng thừa nhận và áp dụng những tập quán quốc tế nhất định có nội dung trực tiếp ấn định quyền, nghĩa vụ của các bên đương sự cũng như những biện pháp và hình thức chế tài cần hoặc có thể được áp dụng đôi với bên vi phạm pháp luật.
Khi phải giải quyết một tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tô" nước ngoài, cơ quan có thẩm quyền cũng như các đương sự căn cứ ngay vào quy phạm thực chất thống nhất để xem xét, không cần giải quyết vấn đề chọn pháp luật nước này hoặc nưốc kia để áp dụng. Có thể nói sự tồn tại của quy phạm thực chất thông nhất loại trừ hiện tượng xung đột pháp luật
Các quy phạm thực chất thống nhất hiện nay được ghi nhận trong điều ước quốc tế như: Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp, Công ước Bécnơ năm 1886 về bảo vệ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, Công ước Chicago năm 1944 về hàng không dân dụng, Công ước Vácsava năm 1929 về vận tải hàng không, Công ước Rôma năm 1933 về thống nhất các quy phạm quy định việc bồi thường thiệt hại do tàu bay gây ra, Công ưổ,c Viên nám 1980 về mua bán quốc tế hàng hoá, V.V..
Các quy phạm thực chất thống nhất còn tồn tại dưới dạng các tập quán quốc tê như: FOB (Free on board), CIF (Cost - inssurance- freight), CAF (Cost-and- freight),...
Cho đến nay, không ai phủ nhận hiệu quả cao của việc dùng các quy phạm thực chất thống nhất. Thậm chí, các nưốc muốn ký kết nhiều điều ước quốc tế hơn nữa để xây dựng các quy phạm thực chất thống nhất, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại và giao thông vận tải quốc tế. Tuy nhiên, việc thực hiện ý muốn này không đơn giản và nhanh chóng được, vì lợi ích của các nước khác nhau, trình độ phát triển mọi mặt cũng như phong tục, tập quán, truyền thống lịch sử không giống nhau. Và như vậy, xây dựng và áp dụng các quy phạm thực chất thống nhất tuy là cách giải quyết xung đột pháp luật hữu hiệu nhất, nhưng vẫn chỉ là một cách và không thề thay thế ngay cho tất cả các cách khác.
Xây dựng và áp dụng các quy phạm xung đột
Khi không có quy phạm thực chất thốhg nhất, các cơ quan có thẩm quyền phải chọn pháp luật của nước này hay nưốc khác để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự cũng như các hình thức và biện pháp chế tài cần hoặc có thể được áp dụng đôì với bên vi phạm pháp luật. Việc lựa chọn pháp luật được tiến hành trên cơ sở chỉ dẫn của quy 'phạm xung đột. Chính vì vậy, khoa học về tư pháp quốc tế gọi việc xây dựng và áp dụng các quy phạm xung đột là một cách giải quyết xung đột pháp luật. Đây là cách giải quyết xung đột pháp luật chủ yếu hiện nay. Bồi lẽ, các quy phạm thực chất thôhg nhất còn quậ ít so với quy phạm xung đột; hơn nữa trong nhiều lĩnh vực hầu như chưa hoặc không xây dựng được quy phạm thực chất thống nhất. Ví dụ, trong lĩnh vực hôn nhân - gia đình và thừa kế chưa hề có quy phạm thực chất thống nhất nào được các quốc gia thoả thuận xây dựng, trong khi đó quy phạm xung đột được thoả thuận xây dựng tương đốỉ nhiều.
Hiện nay, việc xây dựng các quy phạm xung đột nhằm hướng dẫn chọn pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài chủ yếu do các quốc gia đơn phương tự tiến hành. Vì vậy, mỗi quốc gia đều có một hệ thống quy phạm xung đột của mình. Nhiều quốc gia có hệ thôhg quy phạm xung đột khá đầy đủ và đồng bộ như Nga, Mỹ, Pháp, Đức, v.v.
Việt Nam cũng có hệ thống quy phạm xung đột của mình, nhưng còn thiếu quá nhiều và chưa đồng bộ. Các quy phạm xung đột của Việt Nam nằm rải rác trong các văn bản pháp quy của các ngành pháp lụật như: Pháp lệnh về hôn nhan và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài năm 1993 (nay đã hết hiệu lực do có Luật Hôn nhân và gia đình ), Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 1990 (Điều 4 và 5) V.V.. Bộ luật Dân sự Việt Nam hiện nay cũng chỉ dành một phần (phần thứ 7) gồm 13 điều xây dựng các quy phạm xung đột hướng dẫn chọn pháp luật điều chỉnh các môì quan hệ dân sự có yếu tô' nước ngoài, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (chương XI) V.V..
Luật Minh Khuê ( Sưu tầm và biên tập )