Mục lục bài viết
1. Khái niệm luật thương mại
Luật thương mại là tổng thể các quy phạm do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động thương mại giữa các thương nhân với nhau và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Phạm vi điều chỉnh của luật thương mại
Từ khái niệm trên, có thể nhận thấy Luật thương mại có phạm vi điều chỉnh, chính là: Các hoạt động của thương nhân như: đầu tư, mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động khác nhằm mục đích sinh lợi.
Các hoạt động mang tính tổ chức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng liên quan trực tiếp đến hoạt động thương mại như: Đăng ký kinh doanh, kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh, thương mại; giải thể và phá sản doanh nghiệp.
Nội dung chủ yếu khi phân tích luật thương mại và luật dân sự?
>> Luật sư tư vấn pháp luật Doanh nghiệp, gọi: 1900.6162
3. Chủ thể của luật thương mại
Chủ thể của Luật thương mại: Chủ thể của Luật thương mại là những tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện để tham gia vào các quan hệ do Luật thương mại điều chỉnh.
Chủ thể của Luật thương mại phải đảm bảo các điều kiện sau đây:Thứ nhất, phải được thành lập hợp pháp. Được thành lập một cách hợp pháp nghĩa là các chủ thể của Luật thương mại được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập, hoặc đăng ký kinh doanh; có chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động rõ ràng; được tổ chức dưới một hình thức nhất định do pháp luật quy định (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty,…)
Thứ hai, phải có tài sản. Tài sản là cơ sở vật chất không thể thiếu được để cho các chủ thể của Luật thương mại, đặc biệt là các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động kinh doanh. Trên thực tế, tài sản đó tồn tại dưới dạng vốn kinh doanh (vốn điều lệ, vốn pháp định). Khối lượng và cơ cấu tài sản cũng như khối lượng quyền năng của các doanh nghiệp có được đối với từng loại tài sản phụ thuộc và tính chất sở hữu, quy mô hoạt động từng chủ thể.
Thứ ba, có thẩm quyền trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Đây là cơ sở pháp lý để các chủ thể Luật thương mại thực hiện các hành vi pháp lý nhằm tạo cho mình những quyền và nghĩa vụ cụ thể, đồng thời nó cũng quy định rõ giới hạn mà trong đó các chủ thể được hành động trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại.
Các loại chủ thể của Luật thương mại: Căn cứ chức năng hoạt động, vai trò, vị trí và mức độ tham gia các quan hệ thương mại của chủ thể mà chủ thể của Luật thương mại được phân thành hai loại như sau:Chủ thể cơ bản, thường xuyên của Luật thương mại là các thương nhân. Đây là loại chủ thể thường xuyên tham gia các mối quan hệ thương mại thuộc đối tượng của Luật thương mại. Chủ thể không thường xuyên của Luật thương mại là cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế: Đó là cơ quan thay mặt nhà nước, nhân danh nhà nước thực hiện tổ chức quản lý, chỉ đạo các thương nhân tiến hành hoạt động kinh doanh thương mại như: Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND, các sở, phòng, ban…
4. Phương pháp điều chỉnh của Luật thương mại?
Ở Việt Nam hiện nay có quan điểm cho rằng sự phân biệt luật tư và luật công là sự phân biệt quan trọng về đối tượng và phạm vi điều chỉnh. Phương pháp bắt buộc và phục tùng là phương pháp điều chỉnh đặc trưng của luật công, và phương pháp bình đẳng pháp lý là phương pháp điều chỉnh đặc trưng của luật tư . Từ đây có thể hiểu, ngành luật thương mại có một phương pháp điều chỉnh riêng là sự kết hợp các yếu tô' điều chỉnh tác động lên các quan hệ tài sản giữa các thương nhân hoặc những chủ thê’ khác khi thực hiện các hành vi thương mại thuần tuý. Các thương nhân hóặc các chủ thê’ khác tham gia các quan hệ thương mại đều là những thực thê’ độc lập, bình đẳng với nhau về tô’ chức và tài sản, không có quan hệ phụ thuộc trên dưới. Chính yêù tô' này làm cho các chủ thể phải thoả thuận với nhau đê’ cùng có lợi. Vì mưu cầu lợi ích riêng của mình, họ phải tự định đoạt, tự do cam kết, thoả thuận đê’ xác lập, thay đổi hay châm dứt quan hệ của mình.
Nhưng lẽ tất nhiên là sự tự định đoạt và tự do cam kết, thoả thuận không chống lại trật tự công cộng, đạo đức xã hội, không vi phạm tính trung thực, thiện chí, hoặc quyền lợi của người thứ ba.
Xuất phát từ quan niệm luật tư là luật xác lập và giói hạn các quyền lợi tư, có thê’ hiểu luật thương mại là một ngành luật tư xác lập và giới hạn các quyền lợi của các thương nhân khi họ thực hành nghề nghiệp của mình, hay nói cách khác, thực hiện các hành vi thương mại.
Các quan niệm trên dù sao cũng đã ánh hưởng không nhỏ tới việc xây dựng lý thuyết về các qui tắc pháp lý hay các qui phạm pháp luật, cũng như thiết lập các quĩ tắc pháp lý cụ thể của luật thương mại. về học thuật, xét từ tính cưỡng chế, các quy tắc pháp lý không có tính chất cưỡng chế giống nhau và có thê’ được phân chia thành ba loại: (1) qui tắc cưỡng chế; (2) qui tắc giải thích; (3) quỉ tắc ấn định. Các quy tắc của luật thương mại chủ yếu là thuộc phân loại thứ hai nêu trên có mục đích giải thích cho ý chí của các đương sự. Những quy tắc này thường tìm thấy trong chế định hợp đồng. Nếu các bên trong quan hệ hợp đồng không làm rõ quyền và nghĩa vụ của mình, hoặc việc âh định quyền và nghĩa vụ trong đó bị vô hiệu, thì người ta có thê’ căn cứ vào luật đê’ xác định. Phân loại thứ ba gần giống với phân loại thứ hai cũng thường tìm thấy trong luật thương mại. Và các quy tắc này cũng được áp dụng trong trường hợp các đương sự không ấn định rõ quyền và nghĩa vụ của mình. Nhung các quy tắc này không được coi là biểu thị ý chí của các đương sự. Ví dụ dù hợp đổng thành lập công ty hay điều lệ công ty không ấn định tỷ lệ được hưởng lợi nhuận, thì thành viên công ty vẫn được hưởng theo tỷ lệ góp vốn. Phân loại thứ nhất cũng xuất hiện trong luật thương mại khi nhà nước can thiệp vào các quan hệ tư đê’ bảo vệ trật tự công cộng, đạo đức xã hội, nguyên tắc thiện chí, trung thực hoặc quyền lợi của người thứ ba. Chẳng hạn luật thương mại thường cấm kinh doanh những ngành nghề ảnh hưởng tới trật tự công cộng hay trái vói đạo đức...
Mang đặc tính của luật tư, trong luật thương mại các bên có quyền tự do lựa chọn và định đoạt nội dung, cách thức giải quyết các tranh chấp phát sinh. Các bên có thể tự lựa chọn trọng tài hay toà án giải quyết tranh chap, hoặc có thể lựa chọn luật áp dụng cho việc giải quyết tranh châp, thậm chí thoả thuận lựa chọn chứng cứ. Trong các tranh châp như vậy, nhà nước chỉ đóng vai trò trọng tài khi được yêu cầu.
5. Cấu trúc của luật thương mại
Luật thương mại được câù trúc bởi nhiều tiểu phân ngành và chế định phức tạp. Các tiểu phân ngành và các chế định này trùm lân và đan xen với nhiều chế định của các ngành luật khác như luật dân sự, luật lao động, luật hàng hải, luật hàng không, luật hình sự, luật hành chính và tư pháp quốc tế. Luật thương mại có hai tiểu phân ngành lớn là luật về thương nhân và luật về giao dịch thương mại hay luật về hành vi thương mại. Trong hai tiểu phân ngành này, luật về giao dịch thương mại là một lĩnh vực phức tạp râ't khó xác định phạm vi và gây ra nhiều tranh luận, nhâ't là việc phân biệt giữa hành vi dân sự và hành vi thương mại.
Định nghĩa luật thương mại ở trên cho thâỳ thương nhân là linh hổn của luật thương mại. Không có thương nhân, thì không có hoạt động thương mại. Thương nhân là thành tố quan trọng của thị trường. Vì vậy luật về thương nhân là một tiểu phân ngành quan trọng của luật thương mại và bao gồm các chế định:
- Qui chếthương nhân. Khác với các chủ thể thông thường của luật dân sự, thương nhân phải chịu sự chi phối bởi một quy chế ngặt nghèo hơn. Đó là các tiêu chuẩn để trở thành thương nhân và nhiệm vụ của thương nhân, bao gổm: điều kiện để trở thành thương nhân, đăng ký thương mại, công bố các thông tin liên quan, tuân thủ các quy tắc về sổ sách thương mại, cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng...
- Sản nghiệp thương mại. Đây là một chế định bao gồm các quy tắc về khai thác, thế chấp, cho thuê, chuyển nhượng sản nghiệp thương mại. Khi tiến hành kinh doanh, thương nhân cần có sản nghiệp thương mại mà được xem là động sản gồm các yếu tố hữu hình và vô hình như: hàng hoá, trang thiết bị, bàn ghế, khách hàng, quyển sở hữu công nghiệp (biêh hiệu, biểu tượng, tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá, phát minh, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, quyền tác giả), và quyền sở hữu thương mại bao gồm quyền thuê mướn bất động sản, quyền khai thác thương mại...
- Công ty. Thương nhân theo truyền thống được phân chĩa ra làm hai loại là thương nhân thể nhân, và thương nhân pháp nhân. Loại thương nhân thứ hai này còn gọi là thương nhân bởi hình thức hay công ty. Chế định công ty chiếm một tỷ trọng khá lớn trong các đạo luật về thương mại bởi chúng khá phức tạp và là thành tố chính của thị trường.
Luật về giao dịch thương mại hay luật về hành vi thương mại bao gồm các chế định truyền thống có quan hệ hay gắn bó chặt chẽ với hoạt động của thương nhân từ thời kỳ Trung cổ và một số chế định mới phát sinh ngày nay. Việc lý giải cho các chế định của luật về giao dịch thương mại thông thường phải gắn với việc phân tích lịch sử ra đời và phát triển của luật thương mại. Có thê’ con đường hình thành nên các giao dịch thương mại như sau: Việc sản xuất dư thừa tại một vài nơi nào đó với một số loại sản phẩm nào đó trong xã hội làm sinh ra một tầng lớp sống bằng nghề mua bán, trao đổi hàng hoá mà được gọi là các thương nhân. Việc mua bán hàng hoá kéo theo các hoạt động tín dụng, vận chuyển. Từ đó phát sinh ra các nhu cầu: ngân hàng, hối đoái, thuê thiết bị, bảo hiểm, thương phiếu, trung gian thương mại, vận chuyển hàng hóa... Các chế định này được xem là các chếđịnh truyền thông của luật thương mại. Tuy nhiên ngày nay hành vi thương mại được mở rộng hon nữa mà sẽ được đề cập tới ở các chương sau.
Ngoài ra khi nói tới luật thương mại người ta không thể quên nhắc tới chế định phá sản, thanh toán tài sản bao gổm các quy tắc dự liệu cho các trường hợp bất thường xảy ra đôì với thương nhân trong hoạt động kinh doanh.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật Doanh nghiệp - Công ty luật Minh Khuê