1. Lược sử chung

Tìm hiểu lịch sử phát sinh và phát triển của luật thương mại là một vân đê' quan trọng để có thể hiểu được mối liên hệ của nó với các ngành luật khác, từ đó xác định ranh giới của luật thương mại. Dĩ nhiên ranh giới giữa ngành luật này với ngành luật khác chỉ có ý nghĩa tương đối. Song xác định được chúng sẽ làm đơn giản hơn cho việc nghiên cứu và các công việc thực tiễn pháp lý khác.
Luật thương mại chỉ có thể được hình thành khi có một vài điều kiện lịch sử nhất định. Giáo sư Roger Houin và Giáo sư Michel Pédamon cho rằng các yếu tố hợp nhất lại đê’ thành điều kiện lịch sử cho việc ra đời của luật thương mại là: khi có một khối lượng nhất định về sản xuâ't và trao đổi, khi quan hệ quô'c tê' trở nên sôi động, và khi có một sự tự do vừa đủ cho các thương gia . Vì vậy, người ta thường thâỳ, nhiều chế định của luật thương mại giông với các giao dịch vể ngân hàng, thương phiêù, phá sản.'.. ở thời kỳ Trung cổ.
Vào thế kỷ thứ XII và XIII các quy tắc thương mại được hình thành ở miền Bắc nước Ý và ở một trung tâm thương mại khác tại Bruges, Anwers, Amsterdam. Các qui tắc nhu vậy xuất hiện ở các hội chợ lớn để bảo đảm cho việc phân phối và trao đổi hàng hóa trong những khu vực rộng lớn nhất định. Vì vậy, các quy tắc thưong mại có các đặc tính so sánh vói các qui tắc của luật dân sự như sau: (i) Mang tính quốc tế rộng lớn hơn, (ii) đòi hỏi thủ tục đơn giản hơn và thời hiệu ngắn hơn, và (iii) bảo đảm khả năng tín dụng cao hơn. Khoảng đầu thế kỷ XIII, các thương nhân và thợ thủ công đã tự nhóm họp thành các phường hội. Và như vậy các quy chế về phường hội phát triển.
Từ cuối thời kỳ Trung cổ tới cuối thế kỷ XVIII nhu cầu củng CỐ của chế độ quân chủ đòi hỏi quốc gia có luật lệ riêng. Chẳng hạn ở Pháp Chi dụ năm 1563, trong lời nói đầu, Vua Charles IX tuyên bố rằng ông ta trả lại đơn của các thương gia từ Paris gửi tới ông để công khai và giảm bớt chi phí và giảm bớt sự khác biệt giữa các thương gia mà họ phải cùng nhau thương lượng một cách đầy thiện chí, không bị ràng buộc vào sự tinh tế của luật hay Đạo dụ . Đây chính là các nguyên tắc cơ bản của luật thương mại.
Năm 1673, một Đạo dụ ra đời được gọi là Bộ luật Savary theo sáng kiến của Colbert dự định về một nền pháp chế toàn cầu trong lĩnh vực luật tư, tiếp đó là Đạo dụ năm 1681 về luật hàng hải. Có quan điểm cho rằng hai Đạo dụ này đánh dấu sự ra đời của luật thương mại với tư cách là một ngành luật . Các văn bản này đã đặt ra một số quy tắc chung về nghề thương mại, điều chỉnh hối phiếu và thương hội, giải quyết ngắn gọn vấn đề phá sản và vỡ nợ, xác định thẩm quyền tài phán của quan toà và một số quy định liên quan tới chủ quản và phường hội. Các thương nhân được hưởng và phục tùng một chế độ tự trị.
Cách mạng tư sản Pháp đã giải phóng hoạt động thương mại và công nghiệp. Năm 1801, ở Pháp một uỷ ban gồm 7 thành viên bao gồm các thẩm phán và thương gia chuẩn bị dự thảo Bộ luật Thương mại Pháp. Năm 1807, Bộ luật ra đời có hiệu lực từ ngày 1/1/1808 bao gồm 608 điều được chia thành 4 quyển: về thương mại tổng quát; về thương mại hàng hải; Vê' phá sản và vỡ nợ; về tài phán thương mại. Đây là Bộ luật Thương mại đầu tiên trên thế giới được pháp điển hóa hiện đại.
Theo một cách thức khác, nước Anh với truyền thông Common Law đã tiếp nhận các qui tắc của luật thương mại theo con đường mua bán, trao đổi hàng hoá với các nước khác ở Châu Âu lục địa, và coi luật thương nhân như là một phần của thông luật. Thông luật phát triển từ các tập quán và thực tiễn hoạt động của con người thông qua hàng loạt các quyết định pháp lý. Trong các tập quán đó có các tập quán thương mại .

Lịch sử phát triển của Luật thương mại trên Thế giới và tại Việt Nam qua các thời kỳ?

 Luật sư tư vấn pháp luật Doanh nghiệp, gọi: 1900.6162

 

2. Lược sử của luật thương mại Việt Nam

Có thể chia lịch sử phát sinh và phát triêh pháp luật thương mại ở Việt Nam thành 4 giai đoạn: Trước thời kỳ Pháp thuộc; Thòi kỳ Pháp thuộc; Thời kỳ chống Mỹ; và Thời kỳ thông nhất đất nước.
 

2.1 Trước thời kỳ Pháp thuộc

Cho tới nay chúng ta vẫn thường nhắc tới những câu nói của người xưa như: "phi thương, bất phú" hay "buôn có bạn, bán có phường". Những câu nói này đã thể hiện những ý tưởng kinh doanh sâu sắc. Tuy nhiên xã hội phong kiên Việt Nam đã không coi trọng nghề thương. Việc sắp xếp giai tầng trong xã hội "sĩ, nông, công, thương" đã chứng minh điều đó, mặc dù có học giả cho rằng sự sắp xếp như vậy không hẳn đã bao hàm một thang giá trị được công nhận trong xã hội, nhưng cũng phải thừa nhận, kẻ sĩ vẫn được trọng vọng hơn .
Lịch sử cho thâỳ ở Việt Nam thương mại không phát triển. Vậy nguyên nhân lịch sử nào đã dẫn tới điều đó. Có lẽ một số nguyên nhân sau cần được lưu ý:
Thứ nhất, cũng giống vói cách sống của người phương Đông nói chung, người Việt Nam sinh sống trong tôn ti trật tự của các đại gia đình bao gồm nhiều thế hệ, có tính chất họ hàng, ngoài mối quan hệ giữa cha mẹ, con cái (tiểu gia đình). "Đại gia đình sinh hoạt trong một tinh thần kỷ luật chặt chẽ, tôn ti trật tự, để nền tảng gia đình được vững ổn; do đó uy quyền của người gia trưởng rất lớn" . Yếu tố Khổng giáo đã ảnh hưởng lớn tới pháp luật làm cho đại gia đình và chế độ gia trưởng được củng cố vững chắc.
Một mặt, chế độ gia đình này đã kiềm chế thực sự những tự do cá nhân về cả phương diện nhân thân và tài sản. Chẳng hạn Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long đều ngăn cản việc thủ đắc tài sản riêng của con cháu. Bộ luật Gia Long quy định: "Phàm không phải ông bà cha mẹ cho phép, mà con cháu lập riêng sổ hộ tịch, chia gia sản thì phải phạt 100 trượng". Vũ Văn Mầu khẳng định, "trong gia đình phụ hệ chế, chỉ riêng người gia trưởng có quyền hành đối vói nhân thân và tài sản các thân thuộc ở chung trong gia đình bất luận niên tuổi và bất luận họ đã có giá thú hay chưa". Ông còn chi ra nguồn gốc của sự ràng buộc này từ quan niệm của Khổng giáo trong sách lễ ký rằng: "Khi còn cha mẹ, con không dám có đến cả thân thể của mình, không dám có tài sản riêng tư" .
Mặt khác, chế độ gia đình này không chỉ có lợi cho sự ổn định xã hội, duy trì chế độ quân chủ, mà còn, xét trong một mức độ nào đó, có lợi cho cá nhân các thành viên gia đình. Chẳng hạn: Trách nhiệm hình sự tập thể đối với những người thân thuộc trong gia đình, dòng họ bị áp đặt trong một số trường họp đe dọa tới an ninh của chế độ quân chủ bởi việc duy trì một chế độ gia đình như vậy tạo điều kiện thuận lợi cho việc cai trị; tuy nhiên yếu tố gia đình cũng là một yếu tố giảm nhẹ đối với trách nhiệm hình sự có lợi cho cá nhân khi được sự che chở nhất định. Và hơn hết, sự che chở lẫn nhau trong một đại gia đình khi gặp hoạn nạn, rủi ro, trong khi một hệ thống an ninh hay an sinh xã hội chưa được biết đến là rất cần thiết và có lợi cho từng cá nhân.
Bản châ't của hoạt động thương mại là làm tăng khối lượng tài sản của tư nhân, hay nói cách khác, là nhằm mục đích kiếm lời, do đó đòi hỏi phải có quyền tư hữu đối với tài sản và quyền tự do cam kết, thoả thuận và định đoạt tài sản. Một chế độ đại gia đình và gia trượng như vậy được duy trì có lẽ là một hạn chế lớn cho việc ra đời và phát triển các hoạt động thương mại.
Thứ hai, chính sách bế quan tỏa cảng của Việt Nam trong thời kỳ phong kiêh đã hạn chế lớn sự học hỏi từ thế giới bên ngoài. Sự hạn chế này khởi nguồn từ việc các triều đại phong kiên Việt Nam thường nghi kị người nước ngoài nhòm ngó vì muôh bảo vệ chủ quyền quốc gia và loại trừ sự can thiệp của họ vào công việc chính trị nội bộ. Những hạn chế giao thương với nước ngoài được duy trì cho đến thế kỷ XVII . Tuy nhiên, năm Đại Định thứ 10 đời Lý (1149), Lý Anh Tôn đã khai cảng Vân Đồn để các thương thuyên của nước ngoài cập bêh. Nơi giao dịch này ở quan ải cù lao Cát Bà. Mặc dù sử sách đã ghi lại rằng Phô' Hiêh và Hội An là những nơi buôn bán, giao thương ở hai miêh Nam, Bắc. Song việc giao lưu với bên ngoài còn hê't sức hạn chê'.
Có thể nói, cơ sở kinh tế - xã hội cho việc phát triêh luật lệ về thương mại hẩu như không có. Lại thêm nữa, truyêh thống pháp luật chi lưu ý tới các quy tắc của luật hình sự. Nêù có các quy tắc của luật dân sự, thì cũng chỉ là các quy định về gia đình, giá thú, ruộng đâ't và hương hoả . Do đó về cơ bản, tại thời kỳ này, các hình thức công ty hay thương hội chưa xuâ't hiện, có chăng, sự buôn bán chi dưới hình thức hộ gia đình.
 

2.2 Thời kỳ Pháp thuộc

Các quy tắc của luật thương mại xuâ't hiện ở Việt Nam vào thời kỳ Pháp thuộc. Có thể nêu lên một vài sự kiện tóm tắt như sau:
* Năm 1984, thực dân Pháp đem áp dụng Bộ luật Thương mại Pháp ở Nam Kỳ và cho đến năm 1988 áp dụng tại Bắc Kỳ.
* Năm 1892, Pháp ban hành sắc lệnh quy định hành nghề thương mại do người Á - Đông ngoại quốc và người Việt Nam sinh ở nhượng địa Pháp thuộc thẩm quyền của pháp luật của Pháp. Năm 1910 quy định hành nghề thương mại do người Á - Đông ngoại quốc thuộc thẩm quyền pháp luật của Việt Nam. Điều đó cho thấy, có hai chế độ pháp luật ở Việt Nam lúc bấy giờ, có nghĩa là dù sống trong sự thống trị của thực dân Pháp, người Việt vẫn phát triêh một chế độ pháp luật thương mại của mình.
* Vì thế, năm 1931, ở Bắc Kỳ đã có một Bộ luật Dân sự. Năm 1936 ớ Trung Kỳ có một Bộ luật Dân sự. Và năm 1942 (Năm Bảo Đại 17), Triều đình Huế đã ban hành Bộ luật Thương mại. Các Bộ luật này đều đề cập một cách chi tiết tới nhiều chế định của luật thương mại.
 

2.3 Thời kỳ chống Mỹ

Thời kỳ này, đất nước bị chia cắt thành hai miền Nam và Bắc.
Ở miền Nam, chính quyền Sài Gòn, dù được sự bảo trợ toàn diện và đầy đủ của Mỹ, nhưng vẫn duy trì truyền thống pháp luật của Pháp. Năm 1972, chính quyền này đã ban hành hai bộ luật lớn là Bộ luật Dân sự và Bộ luật Thương mại có tầm cỡ quốc tế về kỹ thuật pháp lý. Gạt bỏ những tư tưởng chính trị từ đó, chúng ta có thể thấy, người Việt Nam hoàn toàn có thể tiếp cận được tới các nền pháp lý hiện đại của kinh tế thị trường.
Miền Bắc vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa đấu tranh thống nhất đất nước. Ý tưởng xây dựng một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã dần dần xoá đi ngành luật thương mại. Các hình thức công ty tư nhân không còn nữa, cộng thêm với sự dốc lòng, dốc sức cho chiến tranh, pháp luật về thương mại không còn được lưu tâm tới.
 

2.4 Thời kỳ thống nhất đất nước

Đại hội Đảng lần thứ VI đã khởi xướng đường lối đổi mới nhằm "xây dựng và phát triêh nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chê' thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác " . Ngày 21/12/1990, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Hai đạo luật này ra đời có hiệu lực từ ngày 15/4/1991 đã thực sự thúc đẩy kinh tế khu vực tư nhân phát triển. Các nhà đầu tư có quyển lựa chọn hình thức đầu tư. Tuy nhiên cần phải nhân mạnh, để có những nhà đầu tư tư nhân, Việt Nam đã đi trước một bước trong việc thay đổi tư duy là thừa nhận sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuâ't. Chính sự thừa nhận này đã làm cơ sở cho việc tạo lập nên các loại hình công ty tư nhân, quyền tự do kinh doanh, tự do giao kết hợp đổng...
Suôi 9 năm thực hiện Luật Công ty với một lần sửa đổi, bổ sung không cơ bản vào năm 1994, Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành công. Nhưng có lẽ cái thành công lớn nhâ't là đã tạo ra được thói quen tư duy kinh doanh cho người dân, gạt bỏ lôì sống dựa vào nhà nước, và tiêh tới chỗ tôn vinh doanh nghiệp.
Ngày 10/ 5/1997 đã đánh dâù một sự kiện râ't quan trọng trong công tác xây dựng pháp luật nói riêng và trong khoa học pháp lý nói chung ở Việt Nam. Đó là việc Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 11 thông qua Luật Thương mại.
Sự kiện này là râ't quan trọng bởi hai nghĩa, trước hết bởi lần đầu tiên một đạo luật về thương mại của Nhà nước cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ra đời. Nó khẳng định quyết tâm xây dựng một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở nghĩa thứ hai, đây cũng là lần đẩu tiên một đạo luật ra đời mà tập trung rất nhiều rắc rôì, băn khoăn, trăn trở về mặt lý luận, cũng như thực tiễn pháp lý. Người ta đặt ra rất nhiều câu hỏi qua sự kiện này, chẳng hạn như: Có cần thiết phải xây dựng một đạo luật riêng về thương mại không? Có một ngành luật thương mại độc lập hay không? Ngành luật này được phân biệt như thế nào'với ngành luật kinh tế và ngành luật dân sự? Nếu có một ngành luật như vậy thì đối tượng và phạm vi điều chỉnh của nó là gì? Có nên thành lập tòa án thương mại thay cho tòa án kinh tế hay không? Ngành luật kinh tế có còn tồn tại nữa hay không? V...V... Tuy nhiên các câu hỏi này lại được trả lời bằng việc sửa đổi căn bản Luật Thương mại 1997.
Do chưa có nhiều kiến thức và kinh nghiệm xây dựng pháp luật và điều tiết nền kinh tế thị trường, Luật Công ty đã sớm tỏ ra chật hẹp, không đáp ứng nổi những đòi hỏi của hoạt động sản xuất kinh doanh sôi động, của tiến trình hội nhập quốc tế, và của mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, Luật Doanh nghiệp - một đạo luật mói thay thế và hợp nhất Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp Tư nhân năm 1990 đã được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/6/1999. Đây là một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng đất nước. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp 99 lại bị thay thế bởi Luật Doanh nghiệp 205. Đồng thời Luật Thương mại 2005 mới cũng được ra đời. Thế nhưng các đạo luật mới này cũng đang tiềm ẩn nhiều bất cập cần phải nghiên cứu sửa đổi.
Nói về giai đoạn này, không thể quên nói tới sự ra đời của pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà tại đó có các qui định chi tiết vể các hình thức đầu tư.
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam đã nhanh chóng nhận thấy vai trò của đầu tư nước ngoài, nên đã từ rất sớm thiết lập chính sách đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Văn bản pháp luật đầu tiên có qui định về đầu tư nước ngoài là bản điều lệ về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 115/CP ngày 18/04/1977 của Hội đồng Chính phủ. Sau khi chủ trương đổi mới được khởi xướng, nhằm tranh thủ vốn, công nghệ của nước ngoài và giao lưu kinh tế quốc tế, ngày 29/12/1987, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật Đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam. Đạo luật này có vai trò và ý nghĩa rất lớn thúc đẩy không chỉ kinh tế phát triển, mà còn mở rộng giao lưu quốc tế.
Để phù hợp hơn nữa với hoàn cảnh thực tế và mục tiêu của Việt Nam, và phù hợp với những thay đổi của tình hình thế giới, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, đạo luật này được sửa đổi, bổ sung nhiều lẩn vào năm 1990 và năm 1992.
Năm 1996, đạo luật này được thay thếbằng một đạo luật mới do Quốc hội thông qua ngày 12/ 11/ 1996, và lại được sửa đổi, bổ sung vào ngày 9/ 6/ 2000. Đạo luật mới và Nghị định số 24/ 2000/ NĐ-CP ngày 31/ 7/ 2000 qui định chi tiết việc thi hành nó đã có nhiều qui định rất cụ thể về lĩnh vực đẩu tư nước ngoài tại Việt Nam. Hiện nay Việt Nam đã có một đạo luật đẩu tư có tính bao quát được ban hành năm 2005.
Bên cạnh các đạo luật vê' thương nhân, giai đoạn này cũng đã có nhiều đạo luật qui định vê' các hành vi thương các tính cách riêng rẽ như Bộ luật Hàng hải, Luật hàng không dân dụng...
Công ty luật Minh Khuê (tổng hợp)