Mục lục bài viết
1. Khái niệm về Luật thương mại
Luật thương mại là văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các hành vi thương mại, xác định địa vị pháp lí của thương nhân và quy định những nguyên tắc, chuẩn mực trong hoạt động thương mại tại Việt Nam.
Từ góc độ khoa học pháp lý và góc độ đào tạo luật, ở Việt Nam, khái niệm “Luật Thương mại Việt Nam” là khái niệm khá mới, hình thành trong những năm gần đây, do tác động của điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Trong đào tạo luật học, “Luật Thương mại Việt Nam” là môn học có nội dung nghiên cứu chủ yếu là các quy định pháp luật quốc nội, nghiên cứu về quan hệ thương mại nội địa và địa vị pháp lý của thương nhân thành lập tại Việt Nam.
Ở Việt Nam, những ý tưởng đầu tiên về sử dụng khái niệm “Luật Thương mại”, “Luật Kinh doanh” để thay thế cho khái niệm “Luật Kinh tế” xuất hiện khi diễn ra những thay đổi về kinh tế, về cơ chế quản lý kinh tế và dẫn đến những thay đổi căn bản trong điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân. Khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, chủ thể của Luật Kinh tế không còn là các tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa (tổ chức kinh tế nhà nước, tổ chức kinh tế tập thể) với tư cách là các đơn vị thực hiện hoạt động sản xuất theo kế hoạch được giao. Nền kinh tế không còn vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung mà vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, với nền tảng là sự công nhận quyền tự do sở hữu, quyền tự do kinh doanh, đồng thời chịu nhiều tác động tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những thay đổi này dẫn đến yêu cầu đổi mới trong khoa học luật kinh tế, theo đó, sự tồn tại của khái niệm “Luật Kinh tế” (với nội hàm như đã phân tích) trở nên không còn phù họp. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu thế tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, phạm vi quyền tự do kinh doanh cũng không ngừng được mở rộng, từ chỗ “tự do kinh doanh theo quy định pháp luật”1 đến “tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” - Điều 57 Hiến pháp năm 1992 và Điều 33 Hiến pháp năm 2013..., vai trò can thiệp, kiểm soát từ phía nhà nước cũng thu hẹp rất nhiều theo xu hướng tôn trọng và đảm bảo thực hiện những hành vi không trái pháp luật của người kinh doanh (thương nhân). Xu hướng này làm cho yếu tố “luật tư” được thể hiện rất rõ nét và khái niệm “Luật Thương mại” dần được sử dụng phổ biến, với ý nghĩa là lĩnh vực pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại, hoạt động đầu tư kinh doanh của thương nhân. Khái niệm “Luật Thương mại” đã được thay thế cho khái niệm “Luật Kinh tế”, mặc dù nhiều vấn đề “lý luận về vấn đề này còn có những quan điểm khác nhau và cơ cấu của nó cũng chưa ổn định”.
Trong khoa học pháp lý, mặc dù còn nhiều cách hiểu khác nhau, song có thể định nghĩa:
Luật Thương mại là lĩnh vực pháp luật bao gồm tổng thể các quy định pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm quy định quy chế thương nhân, điều chỉnh hoạt động thương mại của thương nhân và vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại của họ.
“Động lực của toàn cầu hoá chính là sự bùng nổ thương mại hàng hoá và dịch vụ”, dẫn đến sự hình thành một khối lượng đồ bản pháp luật quốc gia, các điều ước quốc tế... điều chỉnh các quan hệ thương mại trong nước và quốc tế. Quy chế thương nhân được xác lập bởi Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Phá sản... Hoạt động thương mại của thương nhân được điều chỉnh bởi văn bản: Luật Thương mại (ở Việt Nam, Luật Thương mại được ban hành năm 1997 và 2005), Bộ luật Dân sự, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Trọng tài thương mại, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Hàng hải, các luật thuế, các tập quán thương mại quốc tế... Tổng thể các nguồn luật này là cơ sở pháp lý cho thương nhân gia nhập thị trường, tổ chức hoạt động và rút khỏi thị trường, là cơ sở pháp lý cho thương nhân tiến hành các hoạt động thương mại vì mục đích sinh lợi. Tuy nhiên, trong khoa học luật thương mại, với sự phát triển không ngừng của các quan hệ thương mại và các văn bản pháp luật điều chỉnh chúng, nhiều lĩnh vực pháp luật thương mại hình thành mang tính chuyên sâu (chuyên ngành) như Luật Thương mại quốc tế gồm các quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ thương mại có yếu tố nước ngoài, Luật Tài chính - Ngân hàng điều chỉnh các hoạt động thương mại trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và thương nhân kinh doanh các dịch vụ này...
2. Lý do cần có Luật thương mại?
3. Lịch sử và nguyên tắc của Luật thương mại Việt Nam
3.1 Lịch sử của Luật thương mại
Dưới chế độ phong kiến, Việt Nam là một xã hội tự cung tự cấp, trong đó nông nghiệp được đánh giá cao và thương mại bị hạn chế. Thương nhân không thể tự hình thành một đẳng cấp được xã hội thừa nhận và không có tư cách pháp nhân riêng, vì vậy không có luật riêng cho họ. Các giao dịch thương mại đôi khi bị chi phối bởi luật hình sự hoặc luật hành chính của các quốc gia phong kiến. Giao dịch giữa các thương nhân được điều chỉnh phần lớn bởi các chuẩn mực đạo đức, phong tục và tập quán cũng như thói quen kinh doanh trong các bang hội và làng nghề
Khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp ở cuối của thế kỷ 19, những ý tưởng về tự do hóa thương mại và luật thương mại châu Âu bắt đầu được phổ biến vào Việt Nam. Các quy tắc quy định các hình thức góp vốn khác nhau để thành lập các hiệp hội nghề nghiệp như hiệp hội đối tác, hiệp hội hợp tác xã tư nhân, hiệp hội cùng có lợi và hiệp hội cổ đông. Trong các phong trào cải cách quốc gia, nhiều nhà dân chủ tư sản địa phương yêu cầu khuyến khích phát triển công nghiệp và thương mại. Chịu ảnh hưởng rất lớn từ Bộ luật Thương mại của Pháp, Vua Bảo Đại, vào ngày 12 tháng 6 năm 1946, đã ban hành một lệnh ban hành Bộ luật Thương mại để áp dụng tại miền Trung Việt Nam. Đó là Bộ luật thương mại đầu tiên tại Việt Nam.
3.2 Nguyên tắc của Luật thương mại
Tuy nhiên, sau vài năm triển khai Luật Thương mại năm 1997 đã bộc lộ những hạn chế và bất cập của nó, không thỏa mãn quá trình và phát triển các hoạt động thương mại thực tế trong và ngoài nước. Điều này đòi hỏi một luật thương mại mới, được xây dựng theo các nguyên tắc sau:
– Thể chế hóa các hướng dẫn và chính sách của nhà nước Việt Nam về phát triển kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước, tập trung vào phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ.
– Tôn trọng và thúc đẩy quyền tự do trong các hoạt động thương mại.
– Tuân thủ các nguyên tắc được quy định trong Bộ luật Dân sự, trong đó nguyên tắc tôn trọng tự do và tự nguyện trong việc đưa ra các cam kết và thỏa thuận được xác định là nền tảng của hoạt động thương mại.
– Tuân thủ luật pháp hiện hành về thương mại, trong đó luật thương mại chi phối các nguyên tắc và thể chế chung về thương mại hàng hóa và dịch vụ.
– Tuân thủ các điều ước quốc tế về thương mại mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập, cũng như các luật lệ và thông lệ thương mại quốc tế.
– Đảm bảo tính minh bạch và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, không cản trở các hoạt động thương mại hợp pháp trên thị trường.
Luật thương mại mới đã được Quốc hội thông qua vào ngày 14 tháng 6 năm 2005 và có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 2006. Nó bao gồm 9 chương với 324 điều. So với Luật Thương mại năm 1997, phạm vi điều chỉnh của luật mới đã được mở rộng để không chỉ bao gồm thương mại hàng hóa mà còn cả các hoạt động cung cấp dịch vụ và các hoạt động xúc tiến thương mại.
Theo như các nguyên tắc của hoạt động thương mại, Luật Thương mại năm 1997 đã quy định một số nguyên tắc như quyền bình đẳng trước pháp luật và hợp tác trong hoạt động thương mại và bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sản xuất và người tiêu dùng. Tuy nhiên, các điều khoản này đã không thể hiện rõ bản chất của các hoạt động thương mại và không nêu rõ đây là những nguyên tắc hay chính sách. Để khắc phục nhược điểm này, Luật Thương mại năm 2005 đã xác định lại các nguyên tắc cơ bản của hoạt động thương mại cho phù hợp với các nguyên tắc được quy định trong Bộ luật Dân sự, các hoạt động thương mại thực tế tại Việt Nam và thông lệ quốc tế. Chúng bao gồm các nguyên tắc như:
– Bình đẳng của thương nhân trước pháp luật trong hoạt động thương mại.
– Tự do và tự nguyện hợp đồng trong các hoạt động thương mại.
– Áp dụng thực tiễn trong hoạt động thương mại đã được thiết lập giữa các bên.
– Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.
– Công nhận tính hợp lệ của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại.
4. Nguồn gốc của Luật thương mại
Khác hẳn với hệ thống " luật tập quán", ở Pháp người ta hiểu "luật" là tất cả các qui phạm pháp luật do chính quyền ban bố, dù là do Quốc hội, do các bộ trưởng, tỉnh trưởng hay do các thị trưởng bàn hành . Nhưng theo thì danh từ luật dũng để chỉ các qui phạm pháp luật do hai Viện thông qua , Tổng thống ban hành và được công bố trong Công báo . Có những lĩnh vực chỉ có luật mớì điều chỉnh được, như các quyền tự do , năng lực pháp lý của con người, chế độ hôn nhân và thừa kế .Ngoài ra còn có những văn bản pháp qui của Thủ tướng hoặc của các Bộ trưởng bàn hành mà người ta gọi là "nghị định " hay "quyết định"; các văn bản pháp qui do tỉnh trưởng hoặc thị trưởng ban hành cũng gọi là "quyết định".
Mọi vướng mắc về các vấn đề pháp lý liên quan đến bài viết, Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Công Ty Luật Minh Khuê xin cảm ơn!