Mục lục bài viết
- 1. Phân loại chủ thế của luật thương mại
- 1.1 Chủ thê’ thông thường hay chủ thể chủ yêù của luật thương mại - các thương nhân.
- 1.2 Chủ thể phụ thuộc của luật thương mại. Những người này bản châ't không phải là thương nhân,
- 1.3 Chủ thể khác của luật thương mại.
- 2. Phân loại thương nhân
- 2.1 Khái niệm thương nhân
- 2.2 Phân loại thương nhân
- 2.3 Hộ gia đình có được coi là thương nhân không?
1. Phân loại chủ thế của luật thương mại
Bởi luật thương mại điều chỉnh các quan hệ giữa các thương nhân hay các hành vi thương mại, nên việc nghiên cứu đối tượng điều chỉnh của luật thương mại góp phần làm rõ các chủ thê’ của luật thương mại. Điều 1, Luật Thương mại 1997 của Việt Nam xác định phạm vi điều chỉnh của luật thương mại là các hành vi thương mại và địa vị pháp lý của thương nhân. Hành vi thương mại được Đạo luật này cho là môì quan hệ giao dịch giữa các thương nhân hoặc giữa các thương nhân với người khác (Điều 5, khoản 1). Chưa bàn đêh tính rắc rối, thiêù chính xác và thiêù rõ ràng của các quy định này, người ta có thể rút ra kết luận: Đạo này điều chinh quan hệ giao dịch giữa các thương nhân với nhau; và giữa một bên là thương nhân với một bên không phải là thương nhân, nêù giao dịch đó là giao dịch thương mại. Luật Thương mại 2005 đã xác nhận lại đối tượng điều chỉnh của luật thương mại theo hướng mở rộng khái niệm hành vi thương mại. Trước kia Luật Thương mại 1997 chỉ xác định 14 hành vi liên quan tới mua bán hàng hóa và dịch vụ mua bán hàng hóa là các hành vi thương mại. Nhưng nay Luật Thương mại 2005 qui định: "Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gổm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiên thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác" (Điều 3, khoản 1). Tuy nhiên cần phải hiêù rằng một đạo luật khó có thê’ bao quát đầy đủ một ngành luật. Vì vậy đối tượng điều chỉnh của Luật Thương mại 2005 (với tính cách là một đạo luật) hẹp hơn đối tượng điều chỉnh của ngành luật thương mại.
.png)
>> Luật sư tư vấn pháp luật Doanh nghiệp, gọi: 1900.6162
Ở các nước theo truyền thống Civil Law, người ta có khuynh hướng cô' gắng xây dựng mỗi bộ luật bao quát một ngành luật (chẳng hạn Bộ luật Dân sự bao quát hầu hê't các vâh để hay các chế định của luật dân sự; cũng như vậy đối với luật thương mại). Theo cách thức này, Bộ luật Thương mại Nhật Bản xác định đô'i tượng điều chỉnh của luật thương mại như sau:
"Điều 2: Bộ luật này áp dụng cho các giao dịch thương mại được thực hiện bởi các pháp nhân công, trừ khi có quy định khác trong bâ't kỳ luật hoặc sắc lệnh nào.
Điều 3: Bộ luật này áp dụng cho cả hai bên, nếu một hành vi là giao dịch thương mại đôì với một trong các bên.
2. Trong trường hợp mà một trong các bên có nhiều người tham gia và một giao dịch trở thành giao dịch thương mại đôì vói một người trong sô' họ thì Bộ luật này áp dụng cho tất cả những người đó".
Luật Thương mại 2005 của Việt Nam có khuynh hướng xác định râ't rộng, nhưng không dứt khoát về phạm vi điều chỉnh của luật thương mại. Theo đạo luật này thì tất cả các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi của thương nhân hay của bâ't kỳ tổ chức cá nhân nào khác đều được xem là hoạt động thương mại và thuộc phạm vi điều chỉnh của luật thương mại (Điều 1, khoản 1; Điều 2; và Điều 3, khoản 1). Tuy nhiên hành vi thương mại hỗn hợp là một ngoại lệ mà sẽ được nghiên cứu sau. Mặc dù vậy đạo luật này vẫn có sự phân biệt giữa thương nhân và người khác tại Điều 2.
Các nghiên cứu trên cho thây, chủ thê’ của luật thương mại có thê’ được phân loại như sau căn cứ vào tính chất chuyên nghiệp hoặc bâ't chuyên nghiệp của họ đôì với việc thực hiện hành vi thương mại:
1.1 Chủ thê’ thông thường hay chủ thể chủ yêù của luật thương mại - các thương nhân.
1.2 Chủ thể phụ thuộc của luật thương mại. Những người này bản châ't không phải là thương nhân,
nhưng do họ tham gia các giao dịch với thương nhân nên trở thành chủ thế của luật thương mại.
1.3 Chủ thể khác của luật thương mại.
Những người này bản châ't không phải là thương nhân, nhung giao dịch của họ là giao dịch thương mại theo bản chất nên họ trở thành chủ thể của luật thương mại. Chủ thể này có thể là các pháp nhân công pháp khi giữa họ tham gia giao dịch thương mại với nhau hoặc họ tham gia giao dịch thương mại vói người khác không phải là thương nhân. Trong các trường hợp này, họ không được hưởng quyển miễn trừ tài phán. Ví dụ: Điều 5 Luật Miễn trừ Nhà nước của Canada tuyên bô' quốc gia không được miễn trừ xét xử của toà án với bâ't kỳ thủ tục tô' tụng nào mà có liên quan tới bâ't kỳ hành vi thương mại do quốc gia thực hiện. Quốc gia ở đây được hiếu là bất kỳ định chê' chính trị nào hay bất kỳ một tổ chức nào câu thành bộ máy chính quyển của một quô'c gia. Một sô'hiệp định Việt Nam ký kết vớí các đối tác nước ngoài cũng đề cập tới việc loại bỏ sự miễn trừ quốc gia khi quốc gia tham gia các giao dịch thương.
Khi nghiên cứu luật thương mại không thê’ quên nghiên cứu thương nhân với tính cách là chủ thê’ thông thường và chủ yêù của luật thương mại mà họ mang những đặc điểm riêng so với các chủ thê’khác (phi thương nhân).
2. Phân loại thương nhân
Chủ thê’ của pháp luật có những thuộc tính đặc biệt do nhà nước trao cho là năng lực chủ thê’ . Vậy trước nên khảo sát luật thực định của các quốc gia quy định thếnào là thương nhân với tư cách là chủ thể thông thường và chủ yêii của luật thương mại.
2.1 Khái niệm thương nhân
Mục 1.1 đã nói chủ thể của luật thương mại được chia thành hai loại là thương nhân và phi thương nhân. Khi khái niệm thương nhân được làm rõ thì khái niệm phi thương nhân đồng thời cũng được nhận biết bởi chúng là hai khái niệm đôi lập.
Bộ luật Thương mại Pháp 1807 định nghĩa: "Thương nhân là những người thực hiện các hành vi thương mại và lấy chúng làm nghề nghiệp thường xuyên của mình" (Điều 1). Theo các Giáo sư Roger Houin và Michel Pédamon thì đây là một định nghĩa kép về thương nhân . Nó bao gổm cả thương nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân. Thương nhân thê’ nhân được xác định bởi bản châ't của hành vi của họ. Còn thương nhân pháp nhân hay gọi chính xác hơn là các thương hội (các công ty) được xác định bởi hình thức của chúng.
Bộ luật Thương mại Bỉ cũng cho rằng các cá nhân và pháp nhân có thê’ là các thương nhân - những người có nghề nghiệp thường xuyên là thực hiện các hành vi mà về mặt pháp lý được xem là các hành vi thương mại.
Điều 1, Bộ luật Thương mại 1885 của Tây Ban Nha có đưa ra khái niệm pháp lý về thương nhân là những người có năng lực pháp luật hoạt động thương mại một cách thường xuyên hoặc là các công ty công nghiệp hoặc buôn bán được thành lập phù hợp với Bộ luật Thương mại. Song ở đây cần phải phân biệt giữa khái niệm kinh tế và khái niệm pháp lý theo cách thức của Tây Ban Nha. Khái niệm kinh tê' xây dựng trên cơ sở thực tê' xã hội về nghề nghiệp của người dân và cho rằng những người hoạt động thương mại như nghề nghiệp của họ là thương nhân, hoặc tự mình điều khiển công cuộc sản xuâ't kinh doanh hoặc tham gia trong đó như những người làm công . Rõ ràng là khái niệm kinh tế rộng hơn nhưng không tạo nên quyển và nghĩa vụ trong hoạt động thương mại.
Điều 4, Bộ luật Thương mại Nhật Bản xác định những người thực hiện các giao dịch thương mại như một nghê’ nghiệp nhân danh bản thân mình, những người bán hàng như một nghê' nghiệp trong các cửa hàng hoặc ở những nơi tương tự hoặc nhũng người làm nghề khai mỏ, thậm chí không tham gia các giao dịch thương mại như một nghề nghiệp và những công ty được thành lập theo Bộ luật Thương mại đều được coi là thương nhân.
Theo cách thức liệt kê, Bộ luật Thương mại 1991 của Cộng hoà Czech mô tả:
"Theo Bộ luật này, thương nhân được coi là:
a) người (thể nhân hoặc pháp nhân) được ghi tên vào sổ đăng ký thương mại;
b) người thực hiện hoạt động kinh doanh trên cơ sở một giây phép cho tiến hành một số hoạt động buôn bán nhất định;
c) người thực hiện các hoạt động kinh doanh trên cơ sở một giấy phép được câp theo các luật hoặc các quy chế đặc biệt khác có các quy định điều chỉnh việc câp giây phép buôn bán;
d) thể nhân thực hiện hoạt động nông nghiệp (sản xuất nông nghiệp) mà được đăng ký vào sổ đăng ký thích hợp theo luật hoặc quy chế đặc biệt" (Điều 2, khoản 2).
Bộ luật Thương mại Tunisia 1959 tuyên bô' rằng tâ't cả những người mà tự bản thân mình thực hiện một cách chuyên nghiệp các hành vi có liên quan tới sản xuất, lưu thông và tích trữ hàng hoá đều được coi là thương nhân, trừ những trường hợp đặc biệt được quy định bởi luật (Điều 2).
Hình thức hoá giao dịch thương mại, Bộ luật Thương mại 1850 cúa Israel định nghĩa thương nhân là những, người làm thương mại và ký kết các họp đổng bằng văn bản liên quan tới các giao dịch thương mại của họ. Tuy nhiên, định nghĩa này không còn được sử dụng.
Pháp luật Brazil quan niệm tâ't cả các cá nhân mà được thực hiện một cách thường xuyên và chuyên nghiệp trong hoạt động kinh tế có tổ chức liên quan tới việc sản xuâ't, hoặc buôn bán hàng hoá hay dịch vụ có thể là thương nhân, với điều kiện họ có đủ các tiêu chuẩn hợp pháp để tiến hành các hành vi thương mại (Điều 1, Bộ luật Thương mại). Điều 2082, Bộ luật Dân sự Italy có cách thức định nghĩa tương tự Bộ luật Thương mại Brazil.
Các nước khác như Hoa Kỳ, Hà Lan, Thụy Sỹ, Thụy Điển... cũng có định nghĩa về thương nhân, nhung đa sô' có yêu cầu đăng ký hoạt động thương mại. Trong khi đó Bộ luật Thương mại Đức định nghĩa khái niệm thương nhân râ't đơn giản rằng: "Thương nhân theo nghĩa của Bộ luật này là một người thực hiện một doanh thương" (Điểu 1, khoản 1). Tuy nhiên theo Bộ luật này vâh đề đăng ký thương nhân vẫn được đặt ra. Cũng với cách thức định nghĩa đơn giản như vậy, Bộ luật Thương mại Iran quy định một người có nghề nghiệp thông thường là các giao dịch thương mại được coi là thương nhân (Điều 1).
Luật Thương mại 1997 của Việt Nam qui định: "Thương nhân gổm cá nhân, pháp nhân, tổ họp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên" (Điều 5, khoản 6). Luật Thương mại 2005 của Việt Nam có khuynh hướng mở rộng hơn khái niệm thương nhân. Điểu 6, khoản 1 của đạo luật này xác định: "Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh". Cách viết qui định này khá mập mờ khiến người ta có thể phân vân (chẳng hạn như "tổ chức kinh tế" là gì hay đối với "tổ chức kinh tế" được thành lập hợp pháp có bao gồm yêu cầu đăng ký kinh doanh không).
Các khảo sát trên cho thâỳ, luật thực định của các quốc gia có các cách định nghĩa khác nhau về thưong nhân. Nhung tóm lại, có hai cách định nghĩa chủ yêù được sử dụng là định nghĩa theo bản châ't thưong mại và định nghĩa theo hình thức quản lý. Pháp, Bỉ, Tunisia, Iran... định nghĩa thương nhân theo bản châ't thương mại. Cộng hoà Czech định nghĩa thương nhân theo hình thức đăng ký thương mại. Luật Thương mại 1997 và Luật Thương mại 2005 của Việt Nam định nghĩa thương nhân theo kiểu hình thức quản lý.
2.2 Phân loại thương nhân
Chắt lọc luật thực định của các quôc gia và phân tích đời sôhg thương mại, có thê’ chia thương nhân thành hai loại là thương nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân. Tuy nhiên ngoài thê’ nhân và pháp nhân, theo pháp luật của Việt Nam, tô’ hợp tác, hộ gia đình cũng cần được xem xét. Luật Thương mại 1997 của Việt Nam khẳng định tô’ hợp tác và hộ gia đình có thể là thương nhân. Luật Thương mại 2005 của. Việt Nam không khẳng định nhưng ngụ ý về một sự tùy thuộc vào quan niệm chủ thê’ của Bộ luật Dân sự 2005.
Trong quá trình xây dựng Bộ luật Dân sự 1995 của Việt Nam, khi bàn đến chủ thê’ của luật dân sự, có nhiều quan điểm cho rằng ngoài các chủ thê’ truyền thôhg là thê’ nhân và pháp nhân, ở Việt Nam còn có hộ gia đình và tô’ họp tác cũng là những chủ thê’ của luật dân sự. Quan điểm này bám vào lý lẽ rằng: (1) Ở Việt Nam các hộ gia đình, tô’ hợp tác có vị trí quan trọng trong xã hội vì chúng tham gia tích cực vào hoạt động sản xuất, kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ...; (2) Đảng và Nhà nước khuyến khích phát triển các đơn vị kinh tế này mà bản thân chúng đang tham gia vào nhiều quan hệ pháp luật như nhận đâ't, thuê đất, chuyến quyền sử dụng đất và ký kết các hợp đổng...; và (3) Điều 21, Hiên pháp 1992 đã quy định "Kinh tế gia đình được khuyên khích phát triển".
Ngược lại, cũng có nhiều ý kiến cho rằng hộ gia đình và tô’ hợp tác không thể được coi là chủ thê’ của quan hệ pháp luật dân sự vì pháp luật của Việt Nam từ trước tới nay và của các nước trên thế giới chỉ thừa nhận hai chủ thê’ của quan hệ pháp luật dân sự là thể nhân và pháp nhân. Hơn nữa, khái niệm hộ gia đình chỉ gắn với việc quản lý hành chính hộ khẩu và việc nhà nước giao đất. về nguyên tắc không thể có việc chủ hộ mặc nhiên thay mặt cho các thành viên trong hộ gia đình tham gia các quan hệ dân sự. Còn tổ hợp tác là một hình thức chưa ổn định .
Quan điểm thứ nhâ't đã được thể hiện vào Bộ luật Dân sự 1995 của Việt Nam. về sau này, khi xây dựng Luật Thương mại 1997 của Việt Nam, các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự được bê sang đạo luật này và được khoác thêm chiêc áo "có đăng ký kinh doanh". Trong quá trình xây dựng Bộ luật Dân sự 2005, tổ hợp tác và hộ gia đình lại một lẩn nữa được đem ra mổ xẻ. Nhưng kết cục Bộ luật này cũng đã không làm thay đổi được gì. Đêh nay khi đang soạn thảo các đạo luật sửa đổi Bộ luật Dân sự 2005, Ban dự thảo cũng vẫn đặt vân đê' xem xét lại hai loại chủ thể này. Vì vậy, khi phân tích các chủ thể này của luật thương mại Việt Nam người ta phải viện dẫn các quy định của Bộ luật Dân sự về chúng. Điều này là bình thường trong trường hợp của các công ty, nhưng đối với tổ hợp tác sẽ là bâ't thường vì tổ hợp tác không thể là chủ thể của luật dân sự, nhưng có thê’ là chủ thể của luật thương mại. Tính chát cửa chủ thể luật thương mại khoáng đạt hơn so với tính châ't chủ thê’ của luật dân sự. Chẳng hạn, hội hợp danh ở một số nước không được coi là pháp nhân, nhưng vẫn là một hình thức công ty thương mại và là chủ thể của luật thương mại.
2.3 Hộ gia đình có được coi là thương nhân không?
Hộ gia đình khó thê’ trở thành chủ thê’ của quan hệ dân sự và thương mại vì các lý do sau:
- Trong hộ gia đình không thê’ có người đại diện đương nhiên cho tất cả các thành viên trong gia đình;
- Các thành viên trong hộ gia đình có thê’ có tài sản chung và tài sản riêng;
- Các giao dịch liên quan tói tài sản chung không thể do chỉ một thành viên quyết định;
- Hộ gia đình khó có thê’là người khởi kiện hoặc bị khởi kiện...
Ngoài các loại thương nhân nói trên, căn cứ vào yếu tô' đăng ký kinh doanh, khái niệm thương nhân thực tế xuất hiện. Thương nhẵn thực tế có các dạng như: (1) Thực hiện hành vi thương mại thường xuyên nhưng chưa hoặc không đăng ký kinh doanh; (2) công ty vô hiệu nhưng chưa bị tuyên bố vô hiệu; và (3) thương nhân chưa hoặc không đăng ký lại khi đăng ký kinh doanh đã chấm dứt hiệu lực. Luật Thương mại 2005 của Việt Nam có các qui định về thương nhân thực tế như sau:
"Thương nhân có nghĩa vụ đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật. Trường hợp chưa đăng ký kinh doanh, thương nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình theo qui định của Luật này và qui định khác của pháp luật" (Điều 7).
Qui định này chỉ nói tới dạng thương nhân thực tế thứ nhâ't, tuy nhiên đã gián tiếp thừa nhận thương nhân thực tế là chủ thể của luật thương mại hay coi thương nhân thực tế là một loại thương nhân đối lập với "thương nhân rõ ràng". Mặc dù luật thương mại thừa nhận có thương nhân thực tế để kiểm soát nó nhằm bảo vệ lợi ích của người thứ ba, nhưng không thể quên rằng thương nhân có nghĩa vụ đăng ký kinh doanh theo đúng qui định của pháp luật.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật Doanh nghiệp - Công ty luật Minh Khuê