1. Đặc điểm tài nguyên khoáng sản Việt Nam

Lãnh thổ VN nằm trên chỗ giao nhau giữa 2 vành đai kiến tạo và sinh khoáng lớn nhất là Thái Bình Dương và Địa Trung Hải, đồng thời nằm trên địa điểm tiếp giáp của đại lục Gorwana và Lauraxia và trên bản lề của mảng đại dương Paxtie với mảng lục địa Âu-Á nên có mặt hầu hết các khoáng sản quan trọng trên Trái Đất. Việt Nam là nước giàu khoáng sản đứng thứ 7 trên thế giới.

Việt Nam nằm trên ranh giới của nhiều mảng kiến tạo, những chỗ ép, nén thường tạo ra mỏ than Quảng Ninh, còn những chỗ tách dãn tạo ra các mỏ dầu (vùng biển phía nam). Dầu khí, sắt, boxit, photphat đều có trữ lượng rất lớn, trữ lượng quặng nhôm chỉ đứng sau Oxtraylia và Chi Lê, đất hiếm chỉ đứng sau Trung Quốc và Mĩ, mỏ sắt Thạch Khê là mỏ sắt lớn nhất ở Đông Nam Á. Điều đặc biệt là thế giới có 5 khoáng sản được gọi là vàng, mà Việt Nam đều có. Việt Nam có lẽ là nước duy nhất có cả 5 loại vàng nói trên và đều thuộc loại tuyệt hảo. Việt Nam là nước giàu tài nguyên khoáng sản. Nước ta có nguồn khoáng sản phong phú, đa dạng. Phần lớn các mỏ có trữ lượng vừa và nhỏ. Một số mỏ có trữ lượng lớn như: Vùng mỏ Đông Bắc với các mỏ sắt, ti tan (Thái Nguyên), than (Quảng Ninh); Vùng mỏ Bắc Trung Bộ với các mỏ crôm (Thanh Hóa), thiếc, đá quý (Nghệ An), sắt (Hà Tĩnh).

Sự hình thành các vùng mỏ chính ở nước ta có thể kể đến các giai đoạn sau: Giai đoạn Tiền Cambri Các mỏ than chì, đồng, sắt, đá quý,... phân bố tại các nền cổ, đã bị biến chất mạnh. Giai đoạn Cổ kiến tạo Sản sinh rất nhiều loại khoáng sản và phân bố trên khắp lãnh thổ nước ta. Giai đoạn Tân kiến tạo Khoáng sản chủ yếu là dầu mỏ, khí đốt, than nâu, than bùn tập trung ở các bồn trầm tích ngoài thềm lục địa và dưới đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Cửu Long..., các mỏ bôxit (quặng nhôm) ở Tây Nguyên. Khoáng sản là tài nguyên không thể phục hồi. Hiện nay một số khoáng sản có nguy cơ bị cạn kiệt, sử dụng còn lãng phí. Việc khai thác một số khoáng sản đã làm ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, để khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản một cách hiệu quả và bền vững, chúng ta cần có các chính sách và giải pháp phù hợp để bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên.

 

2. Chứng minh Việt Nam là nước giàu tài nguyên khoáng sản

Nước ta là đất nước giàu tài nguyên khoáng sản vì hiện nay nước ta đã phát hiện và thăm dò được khoảng 5000 điểm quặng đã và đang được khai thác sử dụng. Tài nguyên khoáng sản nước ta đa dạng về loại hình với khoảng 80 loại khoáng sản khác nhau và có tất cả hơn 3000 mỏ lớn nhỏ ở cả nước. Nhưng tất cả khoáng sản có thể được gộp làm 3 nhóm chính sau đây:

- Nhóm khoáng sản nhiên liệu - năng lượng gồm:

+ Than đá: ta có bể than Đông Bắc Quảng Ninh là lớn nhất cả nước với trữ lượng khoảng 3,5 tỉ tấn điển hình với nhiều mỏ như Hà Tu, Hà Lầm, Đèo Nai, Cọc Sáu…ở miền Trung ta có mỏ than đá Nông Sơn (Quảng Nam) trữ lượng khoảng 10 triệu tấn.

+ Than nâu: ta có mỏ than nâu khá lớn trữ lượng hàng trăm triệu tấn là Na Dương (Lạng Sơn). Mới phát hiện dưới lòng đất ĐBSH có trữ lượng than nâu hàng trăm triệu tấn (980 triệu tấn) nhưng than nâu nằm sâu dưới lòng đất từ 300 - 1000m.

+ Than mỡ: ta chỉ có một mỏ than mỡ duy nhất ở làng Cẩm, Phấn Mễ (Thái Nguyên).

+ Than bùn: có ở nhiều nơi nhưng nhiều nhất là ở rừng U Minh (Cà Mau).

+ Dầu mỏ và khí đốt: Nước ta đã phát hiện có 5 bể trầm tích có chứa dầu mỏ và khí đốt là:

  • Bể trầm tích phía Đông ĐBSH đã phát hiện có nhiều mỏ khí đốt nằm dọc ven biển Thái Bình trong đó nổi tiếng là mỏ khí đốt Tiền Hải.
  • Bể trầm tích phía Đông Quảng Nam - Đà Nẵng đã phát hiện có trữ lượng dầu mỏ khí đốt khá lớn nhưng chưa khai thác. Nhưng hiện nay ta đang xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất số 1 để đón trước sự khai thác dầu khí ở vùng này.
  • Bể trầm tích phía Nam Côn Đảo đã phát hiện nhiều dầu mỏ và khí đốt trữ lượng lớn nổi tiếng như Bạch Hổ, Đại Hùng, Mỏ Rồng…và đặc biệt mới tìm thấy 2 mỏ khí đốt lớn là Lan Tây, Lan Đỏ.
  • Bể trầm tích vùng trũng Cửu Long có trữ lượng dầu khí lớn nhưng rất khó khai thác vì các mỏ này nằm ở vùng nước sâu.

Bể trầm tích Thổ Chu - Mã Lai đã tìm thấy nhiều mỏ dầu khí có trữ lượng khá lớn như Rạng Đông, Chiến Thắng, Hữu Nghị… nhưng chưa khai thác.

+ Năng lượng thủy điện (than trắng): Tổng công suất thủy điện của nước ta từ 20 triệu - 30 triệu kW tương đương 260 - 270 tỉ kWh trong đó nguyên hệ thống sông Hồng chiếm 11 triệu kW » 37% tổng trữ năng thủy điện cả nước và sông Đồng Nai chiếm 19%. Nhờ vậy trên sông ngòi nước ta đã xây dựng nhiều thủy điện công suất lớn như: thủy điện Hòa Bình, Trị An…

- Nhóm khoáng sản kim loại gồm:

+ Quặng sắt: ta có mỏ Trại Cau, Linh Nham (Thái Nguyên), Tòng Bá (Hà Giang), Bảo Hà (Lào Cai), Yên BáI (ven sông Hồng) và đặc biệt có mỏ sắt lớn nhất cả nước là Thạch Khê (Hà Tĩnh).

+ Mỏ Măngan: ta có mỏ lớn nhất cả nước ở Trùng Khánh (Cao Bằng).

+ Mỏ Crôm duy nhất cả nước ở Cổ Định (Thanh Hóa).

+ Mỏ Titan có nhiều ở ven biển Quảng Ninh và đặc biệt có nhiều ở dọc ven biển các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ từ Đà Nẵng - Bình Thuận.

+ Mỏ Bôxit: có nhiều ở dọc biên giới giữa Lạng Sơn và Cao Bằng với TQ và mới phát hiện dưới lòng đất Lâm Đồng có trữ lượng bôxit khá lớn.

+ Thiếc: có nhiều ở Tĩnh Túc (Cao Bằng), Sơn Dương (Tuyên Quang), Quỳ Hợp (Nghệ An).

+ Mỏ Chì - Kẽm: có nhiều ở chợ Đồn, chợ Điền, tỉnh Bắc Cạn.

+ Mỏ Đồng: ta có mỏ đồng lẫn chì ở Sơn La và mỏ đồng lẫn vàng ở Lào Cai.

+ Mỏ Vàng: ta có mỏ vàng trữ lượng khá lớn ở Bồng Miêu (Quảng Nam) còn vàng sa khoáng có ở nhiều nơi.

- Nhóm khoáng sản phi kim gồm:

+ Apatit: cả nước chỉ có một mỏ ở Cam Đường (Lào Cai)

+ Cát thủy tinh: ta có nhiều ở Vân Hải (Hải Phòng), ven biển Quảng Bình, Nam Ô (Quảng Nam) và đặc biệt có trữ lượng cát rất lớn ở ven biển Ninh Thuận và Bình Thuận.

+ Đá vôi: rất phong phú ở trung du miền núi phía Bắc kéo dài qua Ninh Bình, Thanh Hóa vào tận Quảng Bình nổi tiếng với núi đá vôi Kè Bảng (Quảng Bình). ở miền Nam rất hiếm đá vôI và chỉ có trữ lượng đá vôi lớn ở khu vực Hà Tiên.

+ Đá quý (Rubi, Saphia) có nhiều ở Yên Bái và Quỳ Châu, Quỳ Hợp (Nghệ An).

+ Ngoài các khoáng sản nêu trên nước ta còn nhiều loại khoáng sản khác khá phong phú như đất sét, cao lanh, cát đen, cát vàng, đa ốp lát.. Tóm lại qua chứng minh trên ta thấy tài nguyên khoáng sản nước ta khá phong phú và rất đa dạng về loại hình.

 

3. Những thuận lợi và khó khăn trong khai thác và sử dụng khoáng sản để phát triển kinh tế xã hội.

- Thuận lợi:

+ Tài nguyên khoáng sản nước ta do đa dạng về loại hình với nhiều mỏ kim loại như sắt, măngan, đồng…nhiều mỏ phi kim loại như than đá, than nâu, than mỡ, dầu mỏ…chính đó là cơ sở để tạo ra nhiều nguồn nguyên liệu đa dạng để phát triển nhiều ngành công nghiệp khai khoáng và chế biến như: khai thác than, luyện kim đen, luyện kim màu…

+ Nước ta có một số loại khoáng sản có trữ lượng khá lớn: than đá ở Quảng Ninh 3,5 tỉ tấn, dầu mỏ ở biển Đông 10 tỉ tấn, khí đốt từ 2500 - 3000 tỉ m3. Đặc biệt một số loại khoáng sản là vật liệu xây dựng: đá vôi, cát thủy tinh… thì rất phong phú. Chính đó là những cơ sở cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp lâu dài từ thế hệ này sang thế hệ kia.

+ Ta lại có nhiều loại khoáng sản có chất lượng rất tốt như than đá Quảng Ninh tốt ngang với than Antraxit của nước Anh, hàm lượng sắt trong quặng rất cao từ 50 ® 60%. Hàm lượng P205 trong Apatit chiếm 25 - 40%. Chính đó là các nguyên liệu rất có giá trị với phát triển công nghiệp ở trong nước và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao.

+ Điều kiện khai thác nhiều mỏ khoáng sản rất thuận lợi như khai thác lộ thiên ở Quảng Ninh, cát thủy tinh lộ thiên ở bờ biển, Apatit lộ thiên ở Lào Cai. Cho nên việc khai thác các khoáng sản này cho phép làm giảm giá thành trong đầu tư khai thác.

+ Nhiều mỏ khoáng sản phân bố kề nhau hoặc nằm rất gần các nguồn năng lượng thủy điện rẻ tiền như: quặng sắt Thái Nguyên nằm rất gần than mỡ làng Cẩm (Phấn Mễ) dẫn đến rất thuận lợi cho phát triển công nghiệp luyện kim đen ở Thái Nguyên; mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng) lại nằm rất gần thủy điện Tà Sa, Nà Ngần dẫn đến rất thuận lợi để cung cấp điện cho nhà máy luyện thiếc ở Cao Bằng.

+ Thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa nóng nắng quanh năm, nước sông biển không đóng băng, ta có thể khai thác các nguồn tài nguyên khoáng sản quanh năm ở cả trên đất liền và dưới biển với chi phí thấp.

 

- Khó khăn:

+ Trữ lượng khoáng sản nhỏ: tuy nước ta có 80 loại khoáng sản khác nhau với hơn 3000 mỏ nhưng hầu hết trữ lượng các loại khoáng sản của ta đều nhỏ so với thế giới (nhỏ hơn 5% trữ lượng của khoáng sản đó ở trên toàn thế giới) cho nên việc khai thác khoáng sản ở nước ta chỉ phù hợp với quy mô nhỏ và vừa.

+ Điều kiện khai thác nhiều mỏ khoáng sản rất khó khăn điển hình khai thác dầu mỏ ở biển Đông vì các mỏ dầu khí đều nằm sâu dưới đáy biển từ 3000 - 4000m cho nên phải nhờ vào kỹ thuật nước ngoàI rất tốn kém, nhiều mỏ khoáng sản lại phân bố gần biên giới: bôxit (Lạng Sơn) hoặc nằm dưới cánh đồng lúa (than nâu ở ĐBSH)…những mỏ này không những rất khó khai thác mà khi khai thác sẽ làm cạn kiệt nhiều nguồn tài nguyên khác.

+ Hàm lượng các chất khoáng sản rất phức tạp như đồng lẫn chì, vàng lẫn bạc…cho nên phải có công nghệ kỹ thuật hiện đại tiên tiến mới có thể tinh luyện thành những nguyên liệu nguyên chất có giá trị mà ta lại chưa có.

+ Khoáng sản nước ta phân bố rất phân tán, mất cân đối giữa miền Bắc và miền Nam, giữa đất liền với biển cho nên khi phát triển công nghiệp ở miền Nam phải chi phí lớn để vận chuyển khoáng sản từ Bắc vào như vận chuyển than đá, đá vôi. Các mỏ khoáng sản trên đất liền thì đã được khai thác từ lâu và đang có xu thế cạn kiệt, còn khoáng sản dưới biển thì mới bắt đầu khai thác.

+ Thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa diễn biến thất thường khắc nghiệt và nhiều thiên tai cho nên khi khai thác khoáng sản dễ làm đảo lộn hệ sinh thái gây ô nhiễm môi trường và làm cạn kiệt nguồn tài nguyên khác.

 

4. Biện pháp bảo vệ môi trường

Để đảm bảo sự khai thác tài nguyên khoáng sản một cách bền vững và bảo vệ môi trường, chúng ta cần có các chính sách và giải pháp phù hợp, bao gồm:

- Thực hiện đánh giá tác động môi trường trước khi khai thác tài nguyên, đảm bảo rằng các hoạt động khai thác không gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và đời sống của cộng đồng địa phương.

- Áp dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến để giảm thiểu tác động của hoạt động khai thác đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên.

- Điều chỉnh quy hoạch khai thác tài nguyên khoáng sản sao cho hợp lý và bảo đảm sự cân bằng giữa việc khai thác và bảo vệ tài nguyên.

- Thực hiện kiểm tra và giám sát nghiêm ngặt các hoạt động khai thác, đảm bảo rằng các doanh nghiệp và nhà đầu tư tuân thủ các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường và tài nguyên.

- Tăng cường tuyên truyền và giáo dục nhân dân về ý thức bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là đối với các cộng đồng địa phương sống gần các khu vực khai thác.

Tuy nước ta là đất nước nhiều tài nguyên khoáng sản nhưng điều này cũng là một nguyên nhân khiến cho môi trường bị ô nhiễm. Bởi tài nguyên khi con người khai thác và sử dụng đã thải ra môi trường một lượng lớn chất thải khiến cho tự nhiên bị thay đổi. Một biện pháp quan trọng và giúp khắc phục tình trạng này là cần chuyển đổi khai thác những nguồn năng lượng sạch nhanh tái tạo và cắt giảm khai thác khoáng sản không thể phục hồi. Những khoảng sản không thể phục hồi ở đây là than, dầu khí, khí tự nhiên, thủy điện (khó hồi phục),... Những khoảng sản này được hình thành qua nhiều năm trong lòng đất nên để phục hồi thì mất rất nhiều năm, hơn nữa những khoáng sản này còn gây ra ô nhiễm môi trường khi sử dụng. Thay vào đó là sử dụng những nguồn tài nguyên vĩnh cửu như gió, sóng biển, năng lượng mặt trời, những nguồn năng lượng này sẽ giúp phần nào bảo vệ tự nhiên do không thải khí độc hại ra môi trường. 

Trên đây là bài chia sẻ Luật Minh Khuê về chứng minh Việt Nam là nước giàu tài nguyên, khoáng sản hy vọng sẽ giải đáp được thắc mắc của các bạn. Mọi thông tin góp ý xin vui lòng liên hệ chúng tôi qua tổng đài 19006162 để được tư vấn, hỗ trợ sớm nhất. Chúng tôi cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết!