1. Vấn đề nhân quyền ở Việt Nam
Xét từ phương diện nào thì nhân quyền trong một xã hội vẫn luôn phải thể hiện qua những sự kiện, vấn đề, hiện tượng cụ thể của cuộc sống. Nói cách khác, nhân quyền - quyền con người không tồn tại như những khái niệm trừu tượng, không phải là những khẩu hiệu chung chung, mà có thể quan sát, khảo sát, đánh giá, định tính, định lượng,… một cách toàn diện đến từng lĩnh vực hoạt động cụ thể của xã hội, con người. Từ nhận thức về nhân quyền một cách thiết thực như vậy nên Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam luôn phấn đấu để ở Việt Nam vấn đề dân chủ, nhân quyền ngày càng hoàn thiện, phát triển, cuộc sống mọi mặt của toàn dân ngày càng được nâng cao. Nhìn từ lịch sử cách mạng, phải khẳng định rằng ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn nhất, Đảng, Nhà nước Việt Nam vẫn cố gắng chăm lo cuộc sống mọi mặt của toàn dân. Bởi đó là bản chất, là mục tiêu nhất quán của một Nhà nước của dân, do dân, vì dân, đó cũng là nỗ lực để hiện thực hóa điều Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi” (Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.2011, t.9, tr.518).
Khoản 1 Điều 14 Chương II Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định rõ: “Ở nước CHXHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Và trên thực tế, kể từ khi thành lập nước đến nay, vấn đề dân chủ, nhân quyền luôn được quan tâm, chú trọng, lan tỏa sâu rộng trong cuộc sống.
2. Cơ quan phụ trách vấn đề nhân quyền ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trực tiếp phụ trách vấn đề nhân quyền có Ban Chỉ đạo Nhân quyền ra đời theo Quyết định số 63/2004/QĐ-TTg ngày 16/4/2004, thay thế cho 2 quyết định trước đó, quy định nhiệm vụ, quyền hạn và thành phần của Ban Chỉ đạo về nhân quyền của Chính phủ .
Ra đời trong điều kiện của những năm 90, khi các thế lực bên ngoài “lợi dụng vấn đề nhân quyền” để xuyên tạc, bôi nhọ, “bạo loạn lật để’, nên nhiệm vụ chính của Ban Chỉ đạo Nhân quyền là “hướng dẫn đấu tranh”, “tổ chức nghiên cứu các vấn đề lý luận và pháp lý, những thông lệ quốc tế làm cơ sở cho cuộc đấu tranh” về nhân quyền; bên cạnh đó là “đề xuất các hình thức và biện pháp bảo vệ quyền hợp pháp của công dân”, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương giải quyết các vấn đề liên quan đến lĩnh vực bảo vệ, đấu tranh về nhân quyền, “chỉ đạo xây dựng nội dung phục vụ công tác tuyên truyền về nhân quyền” (Ban Chỉ đạo Nhân quyền Chính phủ, 2005).
3. Cơ cấu tổ chức của Ban chỉ đạo Nhân quyền
Về cơ cấu của Ban Chỉ đạo Nhân quyền, Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban phụ trách trực tiếp với một Phó ban Thường trực là Lãnh đạo Bộ Công an và một Phó ban là Lãnh đạo Văn phòng Chính phủ cùng các ủy viên là lãnh đạo các cơ quan như Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, ủy ban Đối ngoại Quốc hội, ủy ban Pháp luật Quốc hội, Ủy ban Dân tộc, Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên hiệp các Tổ chức Hữu nghị, Ban Nội chính Trung ương, Ban Dân vận Trung ương, Ban Đối ngoại Trung ương, Ban Nghiên cứu của Bộ Chính trị về An ninh Quốc gia và Tòa án Nhân dân Tối cao.
Ban Chỉ đạo Nhân quyền có trách nhiệm chỉ đạo và phối hợp với các Bộ, ban ngành, địa phương theo dõi tình hình có liên quan đến nhân quyền, để đánh giá, đề xuất các biện pháp và chính sách có liên quan. Các ủy viên là lãnh đạo của các Bộ, ban ngành, địa phương có trách nhiệm dựa vào bộ máy của Bộ, ban, ngành mình tổ chức theo dõi, nắm tình hình và thực hiện đấu tranh bảo vệ nhân quyền theo thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của Bộ, ban, ngành mình và kịp thời báo cáo, đề xuất với trưởng ban.
Ngoài ra, Ban Chỉ đạo Nhân quyền của Chính phủ còn có Văn phòng Thường trực có chức năng giúp việc Ban Chỉ đạo xây dựng, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện đề án, kế hoạch đấu tranh bảo vệ nhân quyền. Văn phòng do Phó Trưởng ban Thường trực trực tiếp chỉ đạo và do một lãnh đạo Tổng cục trực tiếp phụ trách, có các Phó chánh văn phòng, cán bộ chuyên trách của Tổng cục, cán bộ bán chuyên trách của các Bộ, ngành: Tư pháp, Ngoại giao, Ban Tôn giáo Chính phủ, Văn phòng Chính phủ.
4. Một số thành tựu về nhân quyền của Việt Nam
Đến nay có thể khẳng định Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và vững chắc về nhân quyền. Điều đó không chỉ thể hiện ở những nổ lực của chúng ta trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, mà còn được thể hiện ở việc bảo đảm quyền còn người, quyền công dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên lĩnh vực bảo đảm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, kết quả nổi bật trong năm 2019 là tốc độ tăng GDP cả năm ước đạt trên 6,8%, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao hàng đầu khu vực, thế giới. Môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện. Tập trung đơn giản hóa, cắt giảm thủ tục hành chính, tiết giảm chi phí, hỗ trợ tiếp cận thị trường và các nguồn lực. Phát huy tinh thần khởi nghiệp, phát triển mạnh mẽ các mô hình đổi mới, sáng tạo; ước cả năm có khoảng 134 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và hàng chục nghìn doanh nghiệp hoạt động trở lại. Tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung trong 9 tháng đầu năm đạt trên 3 triệu tỷ đồng. Tập trung chỉ đạo, củng cố và phát triển khu vực kinh tế tập thể, nhất là hợp tác xã kiểu mới; đến nay có gần 24 nghìn hợp tác xã kiểu mới với đa số hoạt động hiệu quả.
Trong năm 2019, các lĩnh vực văn hóa, xã hội được chú trọng, cơ bản gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế, chất lượng cuộc sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện rõ rệt. Các chính sách người có công, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững được các cấp, các ngành tập trung chỉ đạo thực hiện và đạt nhiều kết quả. Cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch tích cực; tạo thêm 1,62 triệu việc làm; mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm 1 - 1,5% (còn khoảng 3,73 - 4,23%); trong đó các huyện nghèo giảm trên 4%. Thành tích giảm nghèo của Việt Nam tiếp tục là một điểm sáng, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
Trên lĩnh vực giáo dục, cho đến nay đã có 63 tỉnh, thành phố đạt phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi và phổ cập giáo dục tiểu học. Bình đẳng giới là một trong những chỉ số về quyền con người quan trọng. Cho đến nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV (2016 - 2021), tỷ lệ phụ nữ tham gia vào Quốc hội đạt 26,71%, cao hơn mức trung bình thế giới là 22,3%; phụ nữ làm chủ doanh nghiệp, chủ cơ sở kinh doanh đạt hơn 27,8%. Trên lĩnh vực văn hóa, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được đẩy mạnh, Chính phủ đã ban hành Nghị định mới về công nhận các danh hiệu văn hóa. Cho đến năm 2018, Việt Nam có thêm 11 di tích và 29 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia được xếp hạng.
Trên lĩnh vực quan hệ quốc tế về quyền con người, Nhà nước ta đã thể hiện nhất quán là một thành viên có trách nhiệm đối với cộng đồng Quốc tế, trong đó có Hội đồng nhân quyền. Việt Nam từng được bầu là thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc (Nhiệm kỳ 2014-2016).
5. Các giải pháp bảo đảm phát triển các quyền cơ bản của con người
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người, quyền công dân:
Trước mắt, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm các quyền con người về dân sự, chính trị; các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa; quyền của nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội như quyền trẻ em, quyền phụ nữ; quyền của công dân cao tuổi… Để làm được điều đó, cần có sự nghiên cứu và tổng kết toàn diện và sâu sắc hệ thống pháp luật hiện hành, có sự phân tích, so sánh đối chiếu với các quy định quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.
- Xây dựng chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát bảo đảm nhân dân tham gia thực sự công việc nhà nước:
Trước mắt và trong thời gian tới đối với cán bộ, công chức nhà nước trong mối quan hệ với nhân dân (quan hệ cá nhân và Nhà nước) đòi hỏi xây dựng chế độ trách nhiệm bảo đảm mỗi cán bộ, công chức nhà nước có thể phát huy hết năng lực cá nhân; đồng thời, xác định cụ thể trách nhiệm cá nhân của mỗi cán bộ, công chức nhà nước trong quá trình thực thi công vụ, giảm thiểu nguy cơ có thể xâm phạm quyền của công dân. Theo đó, pháp luật phải cụ thể hóa mối quan hệ giữa cá nhân, công dân với Nhà nước. Nhà nước là tổ chức công quyền, nghĩa là người làm công, mang quyền lực được ủy quyền từ nhân dân, do đó xác định cụ thể các quyền của công dân theo hướng công dân có quyền được làm tất cả những gì luật pháp không cấm, còn cán bộ, công chức nhà nước chỉ được phép làm những gì mà luật pháp quy định. Đồng thời, trách nhiệm của Nhà nước là phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện quyền con người; và công dân cũng phải làm tròn những nghĩa vụ phát sinh từ việc hưởng thụ các quyền do Hiến pháp và pháp luật quy định.
- Xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, giảm sự phân hóa giàu nghèo, nền tảng cho phát triển bền vững:
Bảo đảm thực hiện quyền con người trong nhà nước pháp quyền XHCN tự bản thân đã đòi hỏi nghèo đói phải được giải quyết về căn bản. Điều đó cho thấy, bảo đảm quyền kinh tế cho mọi người, quyền bình đẳng trong lĩnh vực kinh tế, đòi hỏi chiến lược xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội và dần dần giảm sự phân cách giàu nghèo là rất quan trọng.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải là một xã hội người giàu với số lượng ngày càng đông và người nghèo số lượng ngày càng giảm. Để thực hiện được điều đó, vấn đề quan trọng hiện nay là Nhà nước với vai trò điều tiết vĩ mô, quản lý nền kinh tế, dùng công cụ, sức mạnh thông qua chính sách thuế, thực hiện việc điều tiết, phân phối lợi ích và bảo đảm phúc lợi xã hội, trong đó chú trọng đến các đối tượng hưởng chính sách xã hội, đến vùng sâu, vùng xa; đồng thời, có chiến lược phát triển kinh tế vùng miền, bảo đảm vùng sâu, vùng xa dần tiến kịp với các thành phố, đô thị…
LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm & Biên tập)