Mục lục bài viết
- 1. Cơ sở pháp lý:
- 2. Quyền con người là gì?
- 3. Quyền con người trong lao động và các đặc trưng
- 3.1 Quyền con người trong lao động luôn phát sinh, gắn liền với quan hệ lao động
- 3.2 Quyền con người trong lao động phụ thuộc vào sự vận hành của cơ chế hai bên và cơ chế ba bên.
- 3.3 Quyền con người trong lao động được pháp luật ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện
1. Cơ sở pháp lý:
- Luật bảo hiểm xã hội năm 2014
2. Quyền con người là gì?
Quyền con người được hiểu là những giá trị về vật chất hoặc tinh thần gắn liền với con người được tôn trọng, ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm thực hiện trên cơ sở pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
Quyền con người là một khái niệm mang tính toàn cầu, là mục tiêu cũng là hướng đến của các quốc gia trên thế giới. Quyền con người mang giá trị nhân văn chứa đựng "các chuẩn mực chung cho tất cả các dân tộc và các quốc gia phấn đấu thực hiện".
Thước đo trình độ văn minh của một quốc gia phụ thuộc vào sự phát triển quyền con người của quốc gia. Với ý nghĩa đó, trong các văn kiện quốc tế có tới 24 công ước quốc tế về nhân quyền. Đặc biệt trong số các công ước điều chỉnh về quyền con người thì Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, Công ước quốc tế về cac quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 được xem là văn kiến nòng cốt tạo thành Bộ luật quốc tế về nhân quyền.
3. Quyền con người trong lao động và các đặc trưng
Quyền con người trong lao động là những quyền con người liên quan đến điều kiện lao động và điều kiện sử dụng lao động, bao gồm việc làm, tiền lương, an toàn lao động, hoạt động công đoàn, an sinh xã hội nói chung và bảo hiểm nói riêng.
Dưới góc độ pháp lý, quyền con người trong lao động là những giá trị về vật chất hoặc tinh thần gắn liền với con người trong quá trình lao động được tôn trọng, ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm thực hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật lao động.
Quyền con người trong lao động mang những đặc trưng cơ bản của quyền con người nói chung như:
+ Tính phổ biến;
+ Tính đặc thù;
+ Tính không thể bị tước bỏ;
+ Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền.
Ngoài ra, quyền con người trong lao động còn có những đặc điểm cơ bản khác so với quyền con người trong các lĩnh vực dân sự, chính trị...
3.1 Quyền con người trong lao động luôn phát sinh, gắn liền với quan hệ lao động
Tổ chức lao động quốc tế định nghĩa: "Quan hệ lao động là những mối quan hệ cá nhân và tập thể giữa những người lao động và người sử dụng lao động tại nơi làm việc, cũng như các mối quan hệ giữa các đại diện lao động của họ với nhà nước".
Khái niệm này cũng được Bộ luật lao động năm 2019 quy định: "Quan hệ lao động là quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa người lao động, người sử dụng lao động, các tổ chức đại diện của các bên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quan hệ lao động bao gồm quan hệ lao động cá nhân và quan hệ lao động tập thể." Khi tham gia vào quan hệ lao động, người lao động và người sử dụng lao động được xem là các chủ thể mà nếu thiếu sẽ không thể tồn tại loại quan hệ này. Người lao động tham gia quan hệ lao động với tư cách là người bán sức lao động và người sử dụng lao động tham gia vào thị trường lao động để tìm kiếm lợi nhuận thông qua quá trình sử dụng sức lao động đó.
Kể từ khi tham gia vào quan hệ lao động, thông qua hành vi giao kết hợp đồng, quyền con người trong lao động được hình thành. Các quyền này gắn liền với người lao động và không thể chuyển giao cho các chủ thể khác. Khi quan hệ lao động thay đổi hay chấm dứt kéo theo sự thau đổi về các quyền của họ. Khi quan hệ lao động thay đổi hay chấm dứt kéo theo sự thay đổi về các loại quyền của họ. Quyền con người trong lao động là những quyền gắn với quan hệ lao động và phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa người lao động và người sử dụng lao động. Quyền con người trong lao động bao gồm các loại quyền cơ bản liên quan đến việc làm, tiền lương, bảo hộ lao động, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi, tự do liên kết về an sinh xã hội.
3.2 Quyền con người trong lao động phụ thuộc vào sự vận hành của cơ chế hai bên và cơ chế ba bên.
Trong mối quan hệ hai bên (người lao động và người sử dụng lao động), điều dễ thấy nhất trong quan hệ này đó là việc người lao động lệ thuộc vào người sử dụng lao động và là người có vị trí yếu thế so với người sử dụng lao động.
Người lao động tham gia quan hệ lao động đặt trong mối quan hệ không cân sức với người sử dụng lao động. Sức lao động được xem là hàng hóa để trao đổi tiền lương , phục vụ cho những nhu cầu thiết yếu của người lao động và gia đình họ. Trong khi đó, người sử dụng lao động lại có tài sản và những đặc quyền gắn với việc sở hữu tài sản đó. Quyền quản lý lao động là một thuộc tính gắn liền với người sử dụng lao động buộc người lao động phải lệ thuộc trong quá trình lao động.
Quá trình phát triển của quan hệ lao động trong lịch sử đã chứng minh đặc điểm: “Trong quan hệ lao động, người lao động bao giờ cũng bị lệ thuộc vào người sử dụng lao động. Sự phụ thuộc này có thể ở những mức độ khác nhau trong mỗi hình thái kinh tế xã hội nhưng tồn tại trong tất cả các giai đoạn phát triển. Sự tiến bộ của loài người chỉ có thể giảm bớt những phụ thuộc quá mức cần thiết, giải phóng người lao động để họ được tự do và hưởng quyền con người một cách đầy đủ chứ không thể xóa bỏ nó một cách hoàn toàn”. Chính yếu tố phụ thuộc và vị trí yếu thế của người lao động so với người sử dụng lao động là những thuộc tính riêng của quan hệ lao động quyết định việc thụ hưởng quyền con người trong lao động. Quyền này phụ thuộc vào chính người lao động và người sử dụng lao động.
Trong cơ chế ba bên (người lao động, người sử dụng lao động, nhà nước), quyền con người trong lao động vừa chịu sự chi phối bởi ý chí của người sử dụng lao động và trong một số trường hợp còn chịu sự tác động từ phía nhà nước. Nhà nước vừa giữ vai trò điều tiết quan hệ lao động phát triển theo đúng các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, vừa đóng vai trò là bên thứ ba tham gia vào quan hệ lao động. Nhà nước có thể hạn chế một số quyền con người trong lao động vì người lao động vi phạm quy tắc đạo đức, nghề nghiệp; đối với người lao động đặc thù, nhà nước không cho phép họ tham gia vào các công việc ảnh hưởng đến sức khỏe của chính họ; trong một số trường hợp, nhà nước cũng không cho phép người lao động tham gia vào các ngành nghề, khu vực bị cấm...
3.3 Quyền con người trong lao động được pháp luật ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện
Khi tham gia giao kết hợp đồng lao động, pháp luật đã tạo hành lang pháp lý để bảo vệ quyền con người. Một mặt, nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền con người trong lao động thông qua việc quy định các giới hạn tối thiểu về quyền lợi và tối đa về trách nhiệm cho người lao động. Mặt khác, nhà nước khuyến khích những thỏa thuận có lợi hơn cho người lao động khi tham gia vào quan hệ lao động. Khi quyền lợi của người lao động bị vi phạm, nhà nước áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với các hành vi vi phạm đó.
Quyền con người trong lao động là một loại quyền kinh tế xã hội được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về nhân quyền nói chung và lĩnh vực lao động nói riêng. Liên quan đến lĩnh vực lao động, Việt Nam đã phê chuẩn 20 công ước, trong đó có 5 công ước cơ bản, 3 công ước ưu tiên và 12 công ước kỹ thuật. Các công ước ghi nhận quyền con người trong lao động liên quan đến các vấn đề về việc làm, lao động nữ, lao động trẻ em, lao động hàng hải, trả công bình đẳng, an toàn, vệ sinh lao động, thời giờ làm việc… Việt Nam cũng như các quốc gia khác đã có nhiều nỗ lực trong việc phê chuẩn và nội luật hóa để đảm bảo quyền con người trong lao động được thực hiện một cách hữu hiệu.
Như vậy, đối với vấn đề nhân quyền (hay quyền con người) trong luật lao động thì đó là quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. nó được quy định xuyên suốt trong Bộ luật lao động về các quyền của người lao động và người sử dụng lao động trong quan hệ lao động. Bạn cần tham khảo kết hợp các quy định trong bộ luật lao động các năm để làm rõ vấn đề của mình. Chẳng hạn trong chương I BLLĐ 2019 quy định về quyền làm việc để đảm bảo nhu cầu của người lao đông: "Làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp và không bị phân biệt đối xử" hay quyền tuyển dụng của người sử dụng lao động...
Trên đây là toàn bộ bài viết mà Luật Minh Khuê muốn cung cấp đến bạn đọc tham khảo. Xin cảm ơn!