Khách hàng: Chào Luật sư. Mong luật sư chia sẻ về cơ sở của lý luận về quan hệ giữa người với người và việc áp dụng học thuyết này ở doanh nghiệp Việt Nam.

Cảm ơn Luật sư!

Trả lời:

1. Sự hợp tác tự phát - cơ sở của lý luận về quan hệ giữa người với người

Đối với nhà quản lý, việc lắng nghe ý kiến của người khác còn quan trọng hơn việc khoe khoang sự hiểu biết của mình. Đó là tiêu chí thể hiện sự chín chắn, năng lực phán đoán và trí tuệ của nhà quản lý. Việc trò chuyện với công nhân viên là biện pháp quan trọng để thu thập thông tin, có giá trị khách quan to lớn đối với những người quản lý. Một số nhà quản lý cho rằng qua việc trò chuyện với công nhân, chỉ có thể nghe thấy được một số việc lặt vặt cá nhân và ý kiến chủ quan, không có giá trị gì. Trong con mắt những người ấy, công việc quản lý chỉ bao gồm hai nội dung truớc đó và họ quên đi nhiệm vụ thứ ba, coi thường nhiệm vụ thứ ba, coi thường nhiệm việc thu thập thông tin. Sự coi thường này là những hành động mù quáng, những khó khăn không thể lường trước được do nó tạo ra chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức. Những người quản lý phải hiểu một cách chính xác tình hình hợp tác giữa những công nhân trong các tổ chức cấp dưới của xí nghiệp và thái độ của công nhân với giám đốc. Việc trò chuyện với công nhân viên có thể giúp nhà quản lý có những thông tin tương đối chính xác. Và nếu nói đến thông tin về mặt đó thì công việc trò chuyện với công nhân viên là biện pháp duy nhất để có được thông tin.

Trong môi trường làm việc, có không ít người đã nắm được nghệ thuật giao tiếp với người khác và xử lý quan hệ giữa người với người, nhưng những điều đó chỉ dựa vào kinh nghiệm tích luỹ được, rất khó trao đổi với người khác, hầu như chỉ có thể nhận thức, không thể truyền bá. Hiện nay, người ta cho rằng kiểu tổ chức phi chính thức này tồn tại trong tất cả các tổ chức. Nó cho thấy tính chất quan trọng của mối quan hệ xã hội ổn định ở nơi làm việc đối với cá nhân. Theo Mayo “quan điểm coi con người chỉ là những kẻ theo đuổi lợi ích cá nhân là hoàn toàn sai lầm”. “ Sự tan rã của quan niệm giá trị truyền thống về xã hội đã được ngăn chặn vì sản xuất công nghiệp đã tạo ra một tình thế có lợi cho sự hợp tác tự phát”. Nhiệm vụ đầu tiên của nhà quản lý là tổ chức sự hợp tác tự phát, do đó mà tránh được sự tan rã hơn nữa của xã hội. Do đó ý thức lệ thuộc vào xã hội và gia đình đang mất đi và tính chất quan trọng của nơi làm việc đang tăng lên, nên tổ chức cần phải thay đổi cơ cấu truyền thống để thực hiện sự giúp đỡ đối với cá nhân. Những xung đột, cạnh tranh và bất đồng giữa người với người sẽ có thể tránh được do con người nhận thức được chức trách của mình là cung cấp cho các thành viên của tổ chức sự quản lý từ cơ sở. Cơ sở của lý luận về quan hệ giữa người với người là sự hợp tác tự phát. Hợp tác tự phát tức là vận dụng tri thức khoa học xã hội để đảm bảo sự tận tuỵ của cá nhân đối với mục tiêu và hoạt động sản xuất của tổ chức.

2. Đánh giá tổng quan Doanh nghiệp Việt Nam và học thuyết “Quan hệ con người”

Việc chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường là một bước bứt phá trong việc quản lý của nhà nước và ngay cả đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Với những khó khăn kinh tế và một thói quen làm việc không được kỷ cương đã khiến cho không ít các doanh nghiệp bị phá sản hoặc lâm vào tình trạng nợ nần.

Trong giai đoạn kinh tế thị trường mở cửa với sự gia nhập thị trường của hàng loạt các công ty lớn nhỏ trên toàn cầu đã đem lại nhiều cơ hội nhưng không ít thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Một câu hỏi đặt ra cho các doanh nghiệp trong nước là làm thế nào để các doanh nghiệp Việt Nam có thể đứng vững và phát triển trên thị trường trong nước và có thể vươn ra các thị trường khác? Ngoài việc các nhà quản lý phải tự trau rồi các kiến thức về quản lý qua vịêc học hỏi kinh nghiệm của các bạn hàng trong và ngoài nước, các doanh nghiệp phải cải tổ bộ máy sản xuất và bản thân bộ máy quản lý. Để có được một công ty vững mạnh cần có các nhân viên thích hợp trong từng công việc sản xuất.

Vậy làm thế nào để các nhà quản lý có thể biết một người lao động thích hợp trong khâu nào? Và khi làm công việc được giao phó tâm lý của họ ra sao? Đây chính là một khía cạnh mà nhà tư tưởng Hugo Munsterberg đã đề cập tới. Tư tưởng của ông được rất nhiều các công ty, tập đoàn lớn nhỏ trên thế giới áp dụng trong việc tuyển người và sắp xếp công việc, ý kiến của người làm công với công việc bằng việc kiểm tra đầu vào bằng các bài trắc nghiệm tâm lý và phỏng vấn. Từ đó các doanh nghiệp có thể tuyển được các lao động tốt nhất cho từng vị trí . Việc này được hầu như tất cả các công ty nước ngoài có mặt tại Việt Nam đang áp dụng. Nhưng công việc này chỉ được áp dụng ở không nhiều các công ty Việt Nam. Điều này hầu như khiến các công ty Việt Nam mất đi khả năng cạnh tranh với các công ty áp dụng phương pháp kiểm tra đầu vào chi tiết. Nhưng cũng không ít các doanh nghiệp Việt Nam hoặc liên doanh hiện nay đã, đang và sẽ đưa vào áp dụng mô hình này trong quản lý nguồn đầu vào.

Dưới đây chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về một số doanh nghiệp Việt Nam áp dụng mô hình quản lý nguồn đầu vào sau.

3. Công ty kinh doanh thiết bị điện tử CITEC

Công ty kinh doanh thiết bị điện tử CITEC là một trong các công ty áp dụng thành công mô hình gắn kết này. Nhờ có đối thoại và hợp tác tại nơi làm việc, công ty đã điều chỉnh được mối quan hệ giữa người lao động trong công ty, giúp cho hai bên ngày càng hiểu biết nhau hơn và nâng cao hiệu quả công tác, góp phần tích cực vào sự tăng trưởng của doanh nghiệp. Công ty luôn chú ý tới đời sống tinh thần và vật chất của người lao động đồng thời tạo ra sự gắn kết trong công ty các công nhân luôn giúp đỡ nhau trong công việc và cuộc sống. Nhưng trong công ty cũng luôn có sự đua tranh trong công việc. Sự gắn kết này khiến công ty ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Quan tâm tới nhu cầu của công nhân là một tác phong không thể thiếu của một doanh nghiệp muốn phát triển

.

4. Công ty bia Tiger Hà Tây

Công ty ngoài việc kiểm tra bằng cấp đối với công nhân, họ còn tiến hành trắc nghiệm tâm lý đối với nhân viên, họ tiến hành phỏng vấn nhân viên để có thể đưa họ vào vị trí thích hợp nhất. Như nhận định của rất nhiều nhà quản lý tăng lương cho công nhân là một biện pháp giúp cho tăng năng suất lao động. Đúng là khi tăng lương cho công nhân sẽ khiến cho tinh thần họ hưng phấn, khiến cho họ lao động hăng say hơn nhưng chỉ là trong một thời gian ngắn. Việc tăng lương chỉ trong một giới hạn cho phép, nhưng khi tăng lương đến điểm cao nhất cho công nhân thì chỉ trong một thời gian nhất định năng suất lao động sẽ trở lại mức khởi điểm. Bởi vậy việc tăng lương chỉ là biện pháp tăng năng xuất lao động tạm thời chỉ áp dụng cho các giai đoạn mang tính thời vụ.

Vậy biện pháp nào có thể khiến tăng năng suất lao động? Chỉ có thể là biện pháp tâm lý. Khi tăng sự gắn kết trong nội bộ của công ty bằng việc quan tâm tới đời sống của công nhân, động viên kịp thời công nhân, khuyến khích khả năng của từng công nhân từ đó tạo ra sự gắn kết giữa nguời lao động với người quản lý và chính giữa những người quản lý với nhau. Người lao động Việt Nam với nối sống tình cảm đặc trưng của người phương Đông thì việc tạo ra sự gắn kết tình cảm trong công ty là điều không khó. Nhưng áp dụng nó trong các công ty Việt Nam là điều mà các doanh nghiệp không chú trọng.

5. Công ty liên doanh thiết bị điện Hà Tây

Mỗi quý một lần, Ban lãnh đạo công ty gặp gỡ tất cả những người đang làm việc tại nhà máy để tìm hiểu nhu cầu của họ trong công việc sản xuất và nghỉ giữa giờ. Các điều kiện làm việc và nghỉ ngơi của công nhân ngày được cải thiện đáng kể. Qua cách làm của mỗi công ty cho thấy, đối thoại và hợp tác tại nơi làm việc đã giúp cho người sử dụng lao động đưa ra những quyết định điều hành sản xuất đúng và sát thực hơn. Quan hệ lao động và quan hệ xã hội trong doanh nghiệp được cải thiện hơn và nâng cao đời sống của đôi bên, người lao động và người sử dụng lao động. Đồng thời, người lao động có thêm hiểu biết, nâng cao nhận thức và cùng chia sẻ những khó khăn với doanh nghiệp, rút ngắn khoảng cách giữa người sử dung lao động và người lao động, làm cho bầu không khí lao động được cải thiện hơn. Người sử dụng lao động và người lao động cùng nhau đưa doanh nghiệp vững bước phát triển hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.

6. Kết luận

Trong nền kinh tế thị trường phát triển định huớng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đang dần hội nhập với nền kinh tế thế giới Cùng với sự mở rộng giao lưu, hợp tác. Nền kinh tế Việt Nam còn phải đối đầu với nhiều thách thức hội nhập. Con người luôn đóng một vị trí quan trọng trong nền sản xuất và tiêu dùng. Con người cũng chính là tác nhân đưa nền kinh tế đi lên. Nền kinh tế luôn biến động đòi hỏi các doanh nghiệp phải đưa ra một chính sách chiến lược quản lý hợp lý.Việc nghiên cứu hành vi của người lao động đóng góp một phần rất lớn vào việc định ra chiến lược cho công ty. Việc áp dụng các học thuyết quản lý “quan hệ con người” vào trong các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ củng cố thêm đời sống cho người lao động mà còn đang là việc cấp thiết phải làm để có thể đưa các doanh nghiệp Việt Nam phát triển vững mạnh không chỉ trong thị trường trong nước mà còn vươn ra mạnh mẽ tới các thị trường rộng lớn khác trong tương lai.

Trên đây là nội dung Luật Minh Khuê sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.6162 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Luật Minh Khuê (Sưu tầm và Biên soạn).