Mục lục bài viết
1. Nguồn gốc ra đời của nguyên tắc phân chia quyền lực:
Ngược dòng thời gian, ta thấy tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước có mầm mống xa xưa trong lịch sử. Từ thời cổ đại, khi kiểu nhà nước và pháp luật đầu tiên tồn tại ở Hi Lạp, La Mã. Chúng ta có thể tìm thấy những nét đại cương của nó trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Hi Lạp, La Mã thời kì cổ đại, tong các quan điểm chính trị của Aristote, Polybe… Song tư tưởng này gần như bị lãng quên hoặc không thể được nhắc đến trong thời kì hưng thịnh của chế độ phong kiến, khi mà chính thể quân chủ chuyên chế chiếm hầu hết ở các nước. Chỉ đến khi quan hệ sản xuất phong kiến tan rã, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện và trở thành chỗ dựa vững chắc về mặt tư tưởng cho các phong trào đấu tranh lật đổ chính thể chuyên chế và chế độ phong kiến, vì tự do, dân chủ của nhân dân.
Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước (hay còn gọi là nguyên tắc phân quyền) có cơ sở từ thuyết tam quyền phân lập. Thuyết tam quyền phân lập lần đầu tiên xuất hiện bởi nhà tư tưởng Hi Lạp Aristote. Theo Aristote nhà nước quản lí xã hội bằng ba phương pháp: lập pháp-hành pháp-phân xử. Ông cho rằng không có loại hình chính phủ nào là duy nhất có thể phù hợp với tất cả thời đại và quốc gia. Bên cạnh Aristote có John Locke, Locke cho rằng: quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân. Nhân dân nhường một phần quyền lực của mình cho nhà nước qua khế ước, và để chống độc tài phải thực hiện phân quyền. Locke phân quyền lực thành: lập pháp- hành pháp-liên hợp. Từ thế kỉ 18, nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp Montesquieu phát triển thuyết tam quyền phân lập thành một thuyết độc lập với mục đích tạo dựng thể chế chính trị đảm bảo tự do công dân.
2. Nội dung của nguyên tắc phân quyền:
Bộ máy nhà nước tư sản được tổ chức trên nguyên tắc phân chia quyền lực, mà cơ sở tư tưởng của nó là thuyết tam quyền phân lập do Montesquieu xây dựng với phương châm:" dùng quyền lực nhà nước để hạn chế quyền lực nhà nước". L.Montesquieu cho rằng nhân dân lao động là những người bị trị, nên không thể hạn chế được quyền lực nhà nước do một tập đoàn có thế lực nhất trong xã hội nắm giữ, bởi vậy, phải thiết lập một cơ chế khác để hạn chế quyền lực nhà nước, nhằm ngăn ngừa tệ độc đoán và lạm quyền trong bộ máy nhà nước. Montesquieu xây dựng thuyết tam quyền phân lập để đảm bảo tự do cho nhân dân. Theo ông, tự do chính trị của công dân là quyền mà người ta có thể làm mọi cái mà pháp luật cho phép. Pháp luật là thước đo của tự do. Cũng như Aristote và J.Locke, Montesquieu cho rằng, thể chế chính trị tự do là thể chế mà trong đó quyền lực tối cao được phân thành ba quyền:
* Lập pháp: biểu hiện cho ý chí chung của quốc gia, do nghị viện( Quốc hội) nắm giữ.
* Hành pháp: là việc thực hiện luật pháp đã được thiết lập, do Chính Phủ, tổng thống nắm giữ.
* Tư pháp: trừng trị tội phạm, giải quyết xung đột cá nhân.
Tư tưởng phân quyền của Montesquieu là đối thủ đáng sợ của chế độ phong kiến. Nếu tư tưởng của Aristote chỉ dừng lại ở việc phân biệt các lĩnh vực hoạt động của nhà nước chứ chưa chỉ rõ phương thức vận hành cũng như mối quan hệ bên trong của thành tố đó thì trong tác phẩm "tinh thần pháp luật", Montesquieu lập luận chặt chẽ tính tất yếu và tách bạch các nhánh quyền lực. Ông khẳng định:
" trong bất cứ quốc gia nào đều có ba thứ quyền: quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp, quyền thi hành những điều luật trong dân sự".
Đây là sự tiến bộ của tư tưởng phân quyền của Montesquieu khi tách quyền xét sử- quyền tư pháp độc lập với quyền khác.
"Khi mà quyền lập pháp-hành pháp nhập lại trong tay một người hay một viện Nguyên Lão thì sẽ không còn gì là tự do, vì người ta sợ rằng chính ông ta hay viện đó chỉ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng như không còn gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách rời lập pháp và hành pháp. Nếu quyền tư pháp được nhập lại với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống tự do của công dân. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì quan toà sẽ có sức mạnh của một kẻ đàn áp."
Vậy phải thực hiện phân quyền để đảm bảo tự do. Cách thức tổ chức của một quốc gia tư sản:
" Cơ quan lập pháp trong chính thể ấy gồm hai phần ràng buộc lẫn nhau. Cả hai phần bị hành pháp, tư pháp ràng buộc. Quyền hành pháp sẽ bị quyền lập pháp ràng buộc"
3. Giá trị lí luận và thực tiễn, ưu điểm và hạn chế:
Lý thuyết về ba quyền lực độc lập được giai cấp tư sản giành được chính quyền đưa vào hiến pháp tư sản, trở thành nguyên tắc hiến định của việc tổ chức bộ máy nhà nước tư sản và là một trong những đặc điểm của nhà nước pháp quyền tư sản.Học thuyết về sự phân quyền lực gắn liền với lí luận về pháp luật đã đóng vai trò quyết định trong lịch sử đấu tranh của giai cấp tư sản chống sự độc đoán, chuyên quyền của nhà vua. Mặt tích cực của học thuyết này thể hiện ở chỗ nó ngăn ngừa được sự chuyên quyền dễ phát sinh ở xã hội mà sự thống trị thuộc về số ít người trong xã hội. Nó tạo sự chuyên môn hoá cao trong quản lý. Cơ quan nào cũng bị kiểm tra giám sát việc thực thi quyền lực. Nhờ đó mà hiến pháp và pháp luật mới được tôn trọng triệt để, được thực hiện đúng đắn, đầy đủ. Tuy nhiên, nó có thể dẫn đến sự thiếu đồng bộ, mâu thuẫn trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, thậm chí còn làm cho bộ máy nhà nước bị tê liệt. Trong điều kiện hiện nay, thuyết phân chia quyền lực thực tế không phát huy được tác dụng trước đây của nó. Xu hướng tập trung hoá quyền lực đã hạn chế mặt tích cực của nguyên tắc này. Trong các nhà nước tư sản, chúng ta khó có thể tìm thấy sự phân chia rạch ròi quyền lực nhà nước theo ba hệ thống.
4. Sự áp dụng nguyên tắc phân quyền trong tổ chức bộ máy nhà nước tư sản thời cận đại
Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước có thể áp dụng được và đã áp dụng với các mức độ khác nhau trong tổ chức bộ máy nhà nước,các nhà nước có hình thức chính thể khác nhau từ Cộng hoà tổng thống, quân chủ đại nghị đến Cộng hoà hỗn hợp.Việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được căn bản dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ và thống nhất quyền lực thì vẫn có thể vận dụng được và cần phải vận dụng một số luận điểm của tư tưởng ấy vào việc tổ chức bộ máy nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động của nó cũng như bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Sự thể hiện và áp dụng tư tương phân quyền trong tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước tư sản đại diện cho mức độ áp dụng.Mức độ thể hiện và áp dụng ở những nước có chính thể giống nhau về cơ bản là tương tự nhau. Song không phải nhà nước tư sản nào cũng vận dụng triệt để nguyên tắc này. Nguyên nhân do có thể tương quan lực lượng chính trị chưa nghiêng hẳn về giai cấp tư sản nên họ phải hoà hoãn nhượng bộ cho giai cấp địa chủ phong kiến( ví dụ: Nhật Bản, Anh, Thuỵ Điển, Bỉ…) hoặc do ảnh hưởng của tập quán, truyền thống chính trị mặc dù giai cấp tư sản đã nắm trọn vẹn quyền lực nhà nước (ví dụ: CHLB Đức, Ý , Pháp...) Cùng với sự hình thành của chế độ tư bản, nguyên tắc phân quyền trở thành nguyên tắc chính cuả chủ nghĩa lập hiến tư sản, lần đầu tiên được thể hiện trong các đạo luật của Cách mạng Pháp và thể hiện đầy đủ trong hiến pháp Hoa Kì 1787. Đa số hiến pháp của các nước tư sản thời cận đại đều khẳng định nguyên tắc phân quyền như một nguyên tắc cơ bản. Điều 1 của hiến pháp Ba Lan cũng trực tiếp khẳng định việc tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân quyền.
Ở Mĩ, nguyên tắc phân quyền thể hiện khá rõ. Hiến pháp 1787 của Mĩ thể hiện sự áp dụng đầy đủ và triệt để thuyết phân quyền. Nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước được chia ra thành ba quyền. Ba cơ quan giữ ba quyền này tạo ra sự cân bằng và đối trọng quyền lực để phòng ngừa sự lạm dụng quyền lực. Trên cơ sở nguyên tắc phân quyền, nhà nước Mĩ tổ chức theo ba nguyên tắc để che đậy bản chất của nhà nước tư sản, lừa bịp nhân dân.
* Ba bộ phận của nhà nước có nguồn gốc hình thành khác nhau.
* Ba bộ phận của nhà nước có nhiệm kì khác nhau.
* Ba bộ phận có sự độc lập, kiềm chế lẫn nhau, bảo đảm cho chúng không loại trừ, chiêm quyền.
4.1 Nghị viện
Là cơ quan lập pháp, gồm hai viện: Thượng nghị viện và Hạ nghị viện. Nghị viện có quyền lớn như quyền thông qua các đạo luật, sửa đổi bổ sung các dự án luật, ngân sách của Tổng thống, quyền tán thành hoặc không tán thành các quan chức cấp cao do Tổng thống bổ nhiệm, quyền phê chuẩn hoặc bác bỏ điều ước quốc tế do tổng thống kí. Do xuất phát từ nguyên tắc đối trọng nên hai viện có quyền hạn khác nhau. Hạ viện có quyền luận tội các quan chức cấp cao nhất nhà nước kể cả Tổng thống nhưng quyền kết tội thuộc về Thượng nghị viện. Mục đích là cân bằng ba hệ thống cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, nghị viện không thể lấn áp cơ quan nhà nước khác.
4.2 Tổng thống
Hiến pháp 1787 của Mĩ quy định, tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng đầu bộ máy hành pháp: " quyền hành pháp Hợp Chúng quốc Hoa Kì được trao cho Tổng thống". Nắm quyền hành pháp, Tổng thống là người duy nhất quản lí đất nước, có quyền hạn lớn:
*bổ nhiệm bộ trưởng, chính phủ chỉ là cơ quan tư vấn.
*tổng chỉ huy lực lượng vũ trang.
*trình dự án luật,dự án ngân sách lên nghị viện.
*ban bố, phủ quyết các đạo luật của nghị viện.
Tổng thống do dân bầu ra nhưng theo đầu phiếu gián tiếp.Vì nhà lập hiến dự rằng nếu bầu trực tiếp Tổng thống với sự tấn phong của toàn dân dễ có nhiều uy tín, dễ lấn át nghị viện và có khuynh hướng độc tài.
4.3 Pháp viện tối cao
Gồm 9 thẩm phán do tổng thống bổ nhiệm và được sự chấp thuận của thượng viện.Có các quyền hạn: phán quyết các đạo luật có hợp hiến không giải thích pháp luật và quyền tối cao về xét xử.
Như vậy, bộ máy nhà nước Mỹ đã áp dụng triệt đẻ nguyên tắc phân quyền và có bước hoàn thiện phát triển. Ở Pháp, lập pháp thuộc về nghị viện, hành pháp thuộc về tổng thống và tư pháp thuộc về hệ thống toà án. Nghị viện có hai chức năng cơ bản là lập pháp và giám sát hoạt động của chính phủ. Quan hệ giữa lập pháp và hành pháp mật thiết hơn so với chính thể cộng hoà tổng thống. Cùng với tổng thống, chính phủ, hội đồng bảo hiến trở thành thế lực thứ ba hạn chế quyền lực của nghị viện. Hội đồng bảo hiến có chức năng đảm bảo tính hợp pháp của việc bầu cử nghị sĩ hai viện khi có khiếu nại. Quyền hành pháp do chính phủ mà thực chất do tổng thống nắm. Tổng thống có quyền hoạch định chính sách quốc gia, có quyền ân xá, bổ nhiệm bộ trưởng, chức vụ dân sự. Quyền tư pháp do hệ thống toà án nắm. Ở Pháp có hai hệ thống toà án: toà án thường và toà án hành chính. Bộ trưởng bộ tư pháp là phó chủ tịch.
Nằm trên khu việc đông bắc châu Á, Hàn Quốc là một quốc gia áp dụng nguyên tắc phân quyền. Tổ chức bộ máy nhà nước gồm ba cơ quan. Quyền lập pháp trao cho Quốc hội, một tổ chức đơn viên(Unicameral Body). Chức năng của quốc hội bao gồm quyền kiến nghị bàn bạc,cân nhắc, duyệt hay bác bỏ các dự án luật, hoàn tất kiểm tra ngân sách nhà nước…Quốc hội cũng được trao quyền chỉ trích Tổng thống, phê chuẩn các sắc lệnh về tình trạng khẩn cấp của tổng thống. Hàn Quốc quy định chế định tổng thống nằm trong cơ quan hành pháp của chính phủ nhằm đạt được sự lãnh đạo ổn định và có uy lực dựa trên sự uỷ nhiệm của toàn dân. Quyền tư pháp thuộc về hệ thống toà án. Tòa án tối cao là toà án cao nhất quốc gia, kiểm tra xét duyệt các quyết định cuối cùng về đơn chống lại các quyết định của toà án thượng thẩm trong các vụ án hình sự, dân sự.
Tóm lại, ở hầu hết các nước tư sản đều tổ chức bộ mày nhà nước dựa trên nguyên tắc phân quyền. Đây là hòn đá tảng của nền dân chủ tư sản. Việc áp dụng nguyên tắc này đã tạo cơ sở cho quyền tự do, dân chủ. Hơn nữa, nó khiến cho bộ máy nhà nước tư sản thêm hoàn thiện, tạo tính đồng bộ, chuyên nghiệp cao. Nó triệt tiêu mọi khuynh hướng lệch lạc.
Cảm ơn quý khách đã gửi yêu cầu đến Công ty Luật Minh Khuê, trên đây là nội dung tư vấn của Công ty, nội dung tư vấn có giá trị tham khảo, nếu còn vấn đề mà quý khách hàng còn chưa rõ xin vui lòng liên hệ đến tổng đài của Công ty Luật Minh Khuê 1900.6162 hoặc vui lòng gửi thư đến email để được giải đáp thắc mắc.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật - Công ty Luật Minh Khuê