Mục lục bài viết
1. Quy định chung về hoạt động điều tra
Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, hoạt động điều tra do ba loại cơ quan thực hiện ở các phạm vi và mức độ khác nhau. Đó là Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân, Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; cơ quan được giao quyển hạn điều tra của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, cảnh sát biển tiến hành một số hoạt động điều tra.
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ vụ án của Cơ quan điều tra.
Đối tượng của hoạt động điều tra là hành vi phạm tội, người phạm tội, thiệt hại do tội phạm gây ra và các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án (Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự).
Hoạt động điều tra được thực hiện bằng các biện pháp điều tra khác nhau theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định như hỏi cung bị can, lấy lời khai của những người tham gia tố tụng khác, đối chất, nhận dạng, khám xét, thu giữ vật chứng, tài liệu, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, trưng cầu giám định.
2. Điều tra vụ án hình sự là gì ?
Điều tra là giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền điều tra áp dụng mọi biện pháp do luật định để xác định tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án.
Để thu thập chứng cứ, trong giai đoạn điều tra, cơ quan có thẩm quyền điều tra được tiến hành các hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nếu không có hoạt động điều tra, viện kiểm sát không có cợ sở để truy tố, toà án không có cơ sở để xét xử vụ án. Để viện kiểm sát có thể truy tố đúng người phạm tội, toà án có thể xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì trước đó, giai đoạn điều tra phải thu thập đầy đủ chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, chứng cứ xác định tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ ưách nhiệm hình sự của bị can và chứng cứ xác định các tình tiết khác của vụ án. Neu giai đoạn điều tra không thu thập được đầy đủ chứng cứ hoặc việc thu thập chứng cứ có những vi phạm nghiêm ưọng thủ tục tố tụng thì viện kiểm sát hoặc toà án sẽ trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung. Cơ quan có thẩm quyền điều tra có ưách nhiệm điều tra bổ sung đáp ứng yêu cầu của viện kiểm sát hoặc toà án.
3. Nhiệm vụ điều tra vụ án hình sự?
+ Xác định tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như các tình tiết khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án
Trong giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra phải thu thập đầy đủ chứng cứ để xác định có hay không có việc phạm tội, đối chiếu với BLHS xem hành vi phạm tội thuộc vào điều khoản nào; phải xác định tất cả tội phạm để không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
Khi xác định có tội phạm xảy ra, cơ quan điều tra phải làm rõ ai là người thực hiện hành vi phạm tội; lỗi của họ trong việc thực hiện tội phạm; động cơ, mục đích phạm tội; các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; các đặc điểm nhân thân của bị can; nếu là vụ án đồng phạm, phải xác định rõ hành vi, vai trò của từng người để làm cơ sở cho toà ản xét xử được chính xác.
Mỗi tội phạm xảy ra đều để lại hậu quả nguy hại nhất định cho xã hội. Trong giai đoạn điều tra phải xác định đúng những thiệt hại do tội phạm gây ra để đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Những thiệt hại cần xác định bao gồm thiệt hạỉ về vật chất, tinh thần và tài sản. Đe tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án, nếu xét thấy cần thiết, cơ quan điều tra phải áp dụng biện pháp kê biên tài sản, phong toả tài khoản đối với những người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại hoặc có thể bị tịch thu tài sản hay phạt tiền.
+ Lập hồ sơ vụ án, đề nghị truy tố bị can ra toà án để xét xử hoặc ra quyết định khác để giải quyết vụ án
Để ra quyết định truy tố và tiến hành xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, viện kiểm sát và toà án phải dựa vào hồ sơ vụ án. Hồ sơ điều tra hình sự tập hợp hệ thống các văn bản, tài liệu được thu thập hoặc lập trong quá trình khởi tố, điều tra, được sắp xếp theo trật tự nhất định, phục vụ cho việc giải quyết vụ án và lưu trữ lâu dài. Nếu hồ sơ điều tra hình sự không đầy đủ, viện kiểm sát sẽ gặp khó khăn trong việc đưa ra các quyết định và yêu cầu hợp lí trong và sau quá trình điều tra như khởi tố bổ sung, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, thay đổi điều tra viên, ra quyết định truy tố bị can. Vì vậy, việc lập và củng cố hồ sơ điều tra hình sự là nhiệm vụ quan ưọng của giai đoạn điều tra. Cơ quan điều tra phải lập hồ sơ ngay sau khi có quyết định khởi tố vụ án và thường xuyên củng cố hồ sơ để các tài liệu thu thập được hoặc các văn bản tố tụng được lập ra bảo đảm đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Khi đã có đầy đủ chứng cứ để xác định có tội phạm và bị can thì cơ quan điều tra có nhiệm vụ làm bản kết luận điều tra, trình bày diễn biến hành vi phạm tội, nêu rõ các chứng cứ chứng minh tội phạm, những lí do và căn cứ đề nghị truy tố. Bản kết luận điều tra đề nghị truy tố là cơ sở pháp lí xác định tội phạm và bị can đề nghị truy tố đã được điều tra và có đầy đủ chứng cứ để chứng minh. Căn cứ bản kết luận điều tra, viện kiểm sát chỉ ra bản cáo ưạng truy tố những bị can về các tội phạm đã được điều tra có đủ chứng cứ chứng minh. Những tội phạm và bị can chưa được điều tra sẽ không bị truy tố. Trong trường hợp không có căn cứ để đề nghị truy tố thì ra các quyết định khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để giải quyết vụ án. Ví dụ: hết thời hạn điều tra vẫn không chứng minh được bị can phạm tội hoặc xác định hành vi bị khởi tố, điều tra không cấu thành tội phạm thì ra quyết định đình chỉ điều tra.
+ Xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa
Trong giai đoạn điều tra, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để phòng ngừa tội phạm là một nhiệm vụ quan ưọng. Thực hiện nhiệm vụ này, đối với mỗi tội phạm, cơ quan điều tra phải tìm ra nguyên nhân và điều kiện thúc đẩy việc thực hiện tội phạm. Nếu tội phạm phát sinh do thiếu sót của cơ quan, tổ chức thì yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Ví dụ: qua việc điều tra, phát hiện những thiếu sót trong quản lí kinh tế, trong bảo vệ tài sản, trong việc giáo dục thanh, thiếu niên... dẫn đến việc phạm tội thì cơ quan điều tra yêu cầu các cơ quan có liên quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Các cơ quan, tổ chức được yêu cầu phải chấp hành yêu cầu của cơ quan điều tra.
4. Bình luận quy định về thẩm quyền điều tra theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
Điều 163 quy định về thẩm quyền điều tra của các Cơ quan điều tra chuyên trách điều tra tội phạm – là cơ quan tiến hành tố tụng. Theo điều luật này thì Cơ quan điều tra được tổ chức trong Công an nhân dân, trong Quân đội nhân dân và ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân gồm Cơ quan An ninh điều tra và Cơ quan Cảnh sát điều tra. Cơ quan An ninh điều tra được tổ chức ở cấp Trung ương và cấp tỉnh. Cơ quan Cảnh sát điều tra được tổ chức ở cấp Trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện.
Trong Quân đội nhân dân có Cơ quan điều tra quân sự và Cơ quan điều tra an ninh quân đội. Cơ quan điều tra quân sự được tổ chức ở Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục, Quân khu, Quân đoàn, Quân chủng, Binh chủng, Binh đoàn, Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng và Cơ quan điều tra hình sự khu vực. Cơ quan điều tra an ninh quân đội được tổ chức ở Bộ Quốc phòng, ở Quân khu, Quân chủng, Bộ tư lệnh Bộ đội biên phòng.
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao bao gồm: Cục điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Phòng điều tra thuộc Viện kiểm sát quân sự Trung ương.
Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân và trong Quân đội nhân dân được phân chia thành 2 loại: Loại thứ nhất tiến hành điều tra các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh và những tội phạm do cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân thực hiện; Loại thứ hai tiến hành điều tra các tội phạm còn lại. Cụ thể hơn, thẩm quyền điều tra của từng loại Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân và trong Quân đội nhân dân được quy định như sau:
Đối với Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân:
- Cơ quan An ninh điều tra cấp tỉnh điều tra các tội xâm phạm An ninh quốc gia, các tội phạm mà người thực hiện là cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân và các tội phạm khác khi được Bộ trưởng Bộ Công an giao.
- Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an điều tra các tội phạm quy định tại Chương XXIV của Bộ luật hình sự và những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan An ninh điều tra cấp tỉnh nêu trên nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Đối với Cơ quan Cảnh sát điều tra:
- Cơ quan Cảnh sát điều tra cấp huyện điều tra tất cả các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XII đến Chương XXII của Bộ luật hình sự khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cơ quan An ninh điều tra.
- Cơ quan Cảnh sát điều tra cấp tỉnh điều tra các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XII đến Chương XXII của Bộ luật hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp tỉnh và những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra cấp huyện nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cơ quan An ninh điều tra.
- Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an điều tra các vụ án về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra cấp tỉnh nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Đối với Cơ quan điều tra an ninh quân đội:
– Cơ quan điều tra an ninh quân đội ở Quân khu, Quân chủng, Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng điều tra những vụ án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại Chương XI, Chương XXIV của Bộ luật hình sự, thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự cùng cấp, trừ các tội phạm mà người thực hiện là cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân.
Đối với Cơ quan điều tra quân sự các cấp:
- Cơ quan điều tra quân sự khu vực điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự khu vực, trừ những trường hợp do Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cơ quan điều tra an ninh Quân đội điều tra.
- Cơ quan điều tra quân sự ở Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục, Quân khu, Quân đoàn, Quân chủng, Binh đoàn, Bộ tư lệnh Bộ đội biên phòng điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự cùng cấp, trừ những trường hợp do Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cơ quan điều tra an ninh Quân đội và những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự khu vực nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
- Cơ quan điều tra quân sự ở Bộ Quốc phòng điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra quân sự ở Bộ tổng tham mưu, Tổng cục, Quân khu, Quân đoàn, Quân chủng, Binh chủng, Binh đoàn, Bộ tư lệnh Bộ đội biên phòng, nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Thẩm quyền điều tra tội phạm không chỉ căn cứ vào loại Cơ quan điều tra, căn cứ vào phân cấp trong từng loại mà còn phải căn cứ vào nơi xảy ra tội phạm. Quy định chung là Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án xảy ra trên địa phận của mình. Trong trường hợp không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt. Khi có tranh chấp về thẩm quyền điều tra thì Viện kiểm sát có trách nhiệm giải quyết.
5. Vai trò và ý nghĩa của giai đoạn điều tra vụ án hình sự?
Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến lĩnh vực tố tụng hình sự về điều tra vụ án hình sự, Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể. Trân trọng./.