Sau khi nghỉ việc 2 ngày tôi nhận được lời đe dọa từ phía công ty. Họ nói sẽ thưa kiện tôi và bắt bồi thường vì đã nghỉ ngang không báo trước. Nhưng trên thực tế từ khi vào làm tôi chưa hề được công ty cho ký hợp đồng gì hết. và hiện tại tôi cũng không hề nhận được 1 đồng lương nào từ công ty. Tôi nghĩ đơn giản khi tôi nghỉ ngang thì tôi chấp nhận mất hết lương nhưng tôi không biết là mình có vi phạm luật lao động hay không. Đến khi nhận được lời đe dọa thì tôi thật sự ngỡ ngàng. Kính mong quý luật sư giải đáp thắc mắc của tôi. Ngày mai là tôi phải mang đơn thôi việc lên công ty nộp rồi. Nhưng tôi thấy sợ. Công ty nói sẽ làm cho tôi không thể xin việc chỗ khác được. Rất mong được hỗ trợ.
Câu hỏi được biên tập từchuyên mục tư vấn pháp luật lao động của công ty luật Minh Khuê.
Chào bạn, Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Minh Khuê. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:
Cơ sở pháp lý:
Nội dung tư vấn
Căn cứ Điều 16 Bộ luật Lao động 2012 về hình thức hợp đồng lao động như sau:
Điều 16. Hình thức hợp đồng lao động
1. Hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và được làm thành 02 bản, người lao động giữ 01 bản, người sử dụng lao động giữ 01 bản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Đối với công việc tạm thời có thời hạn dưới 03 tháng, các bên có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói.
Như vậy, không phải trường hợp nào hợp đồng lao động cũng bắt buộc phải lập thành văn bản. Trong trường hợp nếu giữa bạn và công ty có thỏa thuận làm việc trong thời gian dưới 3 tháng thì không cần phải giao kết bằng văn bản mà có thế giao kết bằng lời nói. Bởi vậy, công ty chấp nhận cho bạn thử việc trong 10 ngày, sau 10 ngày thử việc đó công ty tiếp tục để bạn làm việc chính thức và trả lương thì lúc đó hợp đồng lao động đã được hình thành. Trong trường hợp bạn có lý do chính đáng, bạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Căn cứ vào Điều 37 Bộ luật lao động như sau:
Điều 37. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động
1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;
d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;
đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;
e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;
g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.
2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:
a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này;
b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này;
c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.
3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.
Như vậy, vì bạn có lý do là bản thân và gia đình gặp khó khăn không thể tiếp tục làm việc, bạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Tuy nhiên việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của bạn phải đúng pháp luật. Khi chấm dứt hợp đồng, bạn có nghĩa vụ phải báo trước cho người sử dụng lao động biết ít nhất 30 ngày.
Theo bạn nới, trước khi nghỉ viêc bạn đã báo cho tổ trưởng, vậy tổ trưởng có phải người quản lý vấn đề này không?
Khoản 2 Điều 3 Bộ luật lao động về giải thích từ ngữ có định nghĩa "người sử dụng lao động" như sau:
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Bộ luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
2. Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động; nếu là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Như vậy, việc bạn chỉ báo cho tổ trưởng không được coi là đã báo cho người sử dụng lao động. Trường hợp này bạn phải thông báo với bộ phận nhân sự hoặc gửi đơn xin nghỉ việc trực tiếp cho người quản lý của bạn.
Tuy nhiên, việc bạn chỉ thông báo cho tổ trưởng rồi nghỉ việc luôn cũng vi phạm nghĩa vụ báo trước khi chấm dứt hợp đồng lao động. Trường hợp của bạn, bạn đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
Khi đó bạn phải có nghĩa vụ bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền lương tương ứng với tiền lương của bạn trong những ngày không báo trước theo quy định tại Điều 43 Bộ luật lao động:
Điều 43. Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.
3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này.
Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.
Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 hoặc gửi qua email:Tư vấn pháp luật lao động bảo hiểm qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Bộ phận Luật sư tư vấn pháp luật lao động.