Mục lục bài viết
1. Giới thiệu
Theo Từ điển Luật học, thẩm tra là việc xem xét lại kỹ lưỡng dự án luật, pháp lệnh do Hội đồng dân tộc, Ủy ban pháp luật hoặc một ủy ban hữu quan của Quốc hội hay một ủy ban lâm thời được Quốc hội chỉ định tiến hành trước khi trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH). Cơ quan thẩm tra xem xét cả về hình thức và nội dung nhưng tập trung chủ yếu vào xem xét sự phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, tính hợp hiến, hợp pháp; đối tượng; nội dung; phạm vi và tính khả thi của dự án.
Nói chung, việc thẩm tra đòi hỏi việc đánh giá tổng thể nội dung, chính sách pháp luật, cũng như hình thức của dự án và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) cùng các yếu tố kỹ thuật pháp lý, nhằm đảm bảo tính hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ và khả thi của văn bản đề xuất. Quá trình này thường diễn ra trước khi dự thảo văn bản QPPL được chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền để xem xét và phê duyệt.
2. Cơ quan thẩm tra dự án luật
2.1. Đối với thẩm tra chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản QPPL
Điểm đặc biệt mới của Luật Ban hành Văn bản Quy phạm pháp luật 2015 là việc bổ sung quy trình xây dựng chính sách trước khi soạn thảo. Quy trình này được thực hiện trong giai đoạn lập đề nghị xây dựng văn bản QPPL. Theo quy định của Luật và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP của Chính phủ, không phải tất cả văn bản QPPL đều phải xây dựng chính sách trước khi soạn thảo, mà chỉ áp dụng cho một số loại văn bản nhất định. Điều này bao gồm luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội và UBTVQH, nghị định của Chính phủ, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
Tuy nhiên, Luật Ban hành Văn bản Quy phạm pháp luật 2015 chỉ ghi nhận quy định về thẩm tra chính sách trong đề nghị xây dựng luật và pháp lệnh tại Điều 47. Do đó, chỉ có luật và pháp lệnh phải trải qua quá trình thẩm tra chính sách theo quy định của Luật này.
Chủ thể thực hiện thẩm tra đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh là Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Trong đó, Ủy ban Pháp luật tập hợp và chủ trì thẩm tra đề nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và kiến nghị về luật, pháp lệnh. Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội phối hợp với Ủy ban Pháp luật trong việc này.
Có hai trường hợp đặc biệt: khi UBTVQH trình dự án luật, Quốc hội quyết định cơ quan thẩm tra hoặc thành lập Ủy ban lâm thời để thẩm tra; khi Hội đồng Dân tộc hoặc các Ủy ban của Quốc hội trình dự án luật, pháp lệnh, UBTVQH quyết định cơ quan thẩm tra.
2.2. Đối với thẩm tra dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
Quá trình thẩm tra dự án và dự thảo Văn bản Quy phạm pháp luật (VBQPPL) diễn ra sau giai đoạn soạn thảo, khi các chính sách đã được chuyển đổi thành các điều khoản cụ thể. So với việc thẩm tra chính sách, phạm vi thẩm tra dự án và dự thảo mở rộng hơn, bao gồm tất cả các văn bản VBQPPL của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), và Hội đồng Nhân dân (HĐND) các cấp.
Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội chịu trách nhiệm thẩm tra các dự án luật, nghị quyết của Quốc hội và các dự án pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH. Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội cũng phụ trách thẩm tra các dự án, dự thảo thuộc lĩnh vực quản lý của họ và các dự án, dự thảo khác được giao bởi Quốc hội, UBTVQH; họ cũng tham gia vào thẩm tra các dự án, dự thảo do cơ quan khác của Quốc hội chịu trách nhiệm thẩm tra, theo sự phân công của UBTVQH.
Ở địa phương, các Ủy ban của HĐND các cấp chịu trách nhiệm thẩm tra các dự thảo nghị quyết của HĐND cấp đó.
3. Nội dung thẩm tra dự án luật
Đầu tiên, về nội dung thẩm tra chính sách trong quá trình xây dựng Văn bản Quy phạm pháp luật (VBQPPL), việc thẩm tra tập trung vào các mặt sau: Sự cần thiết của việc ban hành văn bản, phạm vi ảnh hưởng, đối tượng điều chỉnh, cơ bản của chính sách trong văn bản, tính thống nhất, khả thi, thứ tự ưu tiên, thời điểm trình bày, điều kiện để xây dựng và thực hiện văn bản.
Thứ hai, về nội dung thẩm tra dự án và dự thảo VBQPPL, việc thẩm tra tập trung vào các mặt sau: Phạm vi và đối tượng điều chỉnh của văn bản; Nội dung của dự thảo văn bản và các ý kiến đa chiều; Việc giao và chuẩn bị văn bản quy định chi tiết (nếu có); Sự phù hợp của nội dung dự thảo với chính sách của Đảng, tính thống nhất với hệ thống pháp luật; Tương thích với các quy định quốc tế mà Việt Nam là thành viên; Khả thi của các quy định trong dự thảo; Điều kiện về nhân lực, tài chính để thực hiện văn bản; Bao gồm vấn đề bình đẳng giới nếu có; Ngôn ngữ, kỹ thuật và trình tự soạn thảo văn bản.
Đối với dự thảo nghị quyết của Hội đồng Nhân dân, các quy định trong Điều 124, 136 và 143 tập trung vào nội dung sau: Nội dung của dự thảo và các ý kiến đa chiều; Sự phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước, với tình hình kinh tế - xã hội địa phương; Tính hợp pháp, thống nhất với hệ thống pháp luật.
4. Quy trình thẩm tra dự án luật
Quy trình thẩm tra dự án luật theo quy định của pháp luật hiện hành bao gồm ba giai đoạn chính: chuẩn bị, tiến hành thẩm tra, và soạn thảo báo cáo thẩm tra.
Trong giai đoạn chuẩn bị thẩm tra dự án luật, việc này đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Các thành viên của Hội đồng Đối thoại và Điều phối (HĐDT) hoặc Ủy ban chủ trì thẩm tra được phân công làm việc với Ban soạn thảo để theo dõi tiến độ soạn thảo, nội dung của dự án luật và yêu cầu trình bày các vấn đề liên quan. Các cơ quan có liên quan cũng có thể được yêu cầu cung cấp thông tin và ý kiến. Ngoài ra, tổ chức lấy ý kiến từ các cơ quan, tổ chức liên quan và các đối tượng ảnh hưởng, thực hiện khảo sát thực tế và học tập kinh nghiệm quốc tế. Kết quả thu thập ý kiến và khảo sát được tổng hợp và gửi tới các thành viên của HĐDT hoặc Ủy ban để tham khảo.
Trong giai đoạn tiến hành thẩm tra dự án luật, thẩm tra diễn ra theo hai hình thức: thẩm tra sơ bộ và thẩm tra chính thức. Thẩm tra sơ bộ được tổ chức tại phiên họp của thường trực HĐDT hoặc Ủy ban chủ trì thẩm tra. Thẩm tra chính thức diễn ra tại phiên họp toàn thể của HĐDT hoặc Ủy ban chủ trì thẩm tra, đặc biệt là đối với dự án luật được trình Quốc hội xem xét và thông qua.
Quá trình thẩm tra được thực hiện theo trình tự như sau: Đại diện cơ quan trình dự án luật trình bày dự án; Các đại biểu tham dự phiên họp đặt câu hỏi và đại diện cơ quan trình dự án trình bày bổ sung; Thành viên của HĐDT hoặc Ủy ban chủ trì thẩm tra được phân công nghiên cứu và chuẩn bị ý kiến để phát biểu; Các thành viên và đại biểu tham dự phiên họp phát biểu ý kiến và thảo luận. Trong quá trình thảo luận, đại diện cơ quan trình dự án có trách nhiệm giải trình để làm rõ các vấn đề được nêu hoặc yêu cầu. Chủ tọa phiên họp kết luận và lấy biểu quyết về các vấn đề quan trọng nếu cần thiết.
Cuối cùng, trong giai đoạn soạn thảo báo cáo thẩm tra dự án luật, báo cáo này là văn bản bắt buộc trong quy trình xây dựng luật và được trình bày trước Quốc hội hoặc UBTVQH bởi Chủ tịch HĐDT hoặc Chủ nhiệm Ủy ban chủ trì thẩm tra, hoặc người được ủy nhiệm. Nội dung của báo cáo phải phản ánh đầy đủ ý kiến của các thành viên và cơ quan tham gia thẩm tra. Trong quá trình soạn thảo, Thường trực HĐDT hoặc Thường trực Ủy ban chủ trì thẩm tra đảm bảo bộ phận giúp việc soạn thảo nhận được ý kiến và hoàn thiện báo cáo.
Bài viết liên quan: Thẩm tra là gì? Ý nghĩa, vai trò của hoạt động thẩm tra là gì?
Luật Minh Khuê xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng qua số hotline: 1900.6162 hoặc email: lienhe@luatminhkhue.vn. Xin trân trọng cảm ơn!