Mục lục bài viết
1. Một số nét chung về tác giả của thác phẩm "Khảo luận thứ hai về chính quyền"
John Locke (1632-1704) là một trong những triết gia vĩ đại nhất của châu Âu thế kỷ XVII, tác giả của một trong những tác phẩm được xem là vĩ đại nhất của nền triết học chính trị và chính trị học nhân loại – Khảo luận thứ hai về chính quyền (Second Treatise of Cỉvil Government). Lôckơ được Ph.Ăngghen mệnh danh là đứa con của sự thoả hiệp giai cấp năm 1688. Là người thể hiện lợi ích của giai cấp tư sản, Lôckơ phát ngôn với tư cách là ngươi ủng hộ cái trật tự chính trị, xã hội được xác lập sau cuộc cách mạng 1688.
Về mặt triết học, Lôckơ là nhà chủ nghĩa duy vật không kiên định, cùng với sự thừa nhận ý nghĩa nền tảng của vật chất và nguồn gốc kinh nghiệm của nhận thức, cho rằng trí tuệ của con người khi mới sinh giống như một tờ giấy trắng, không có cái gợi là ý niệm bẩm sinh mà mọi trí thức của con người đều bắt nguồn từ kinh nghiệm, từ cảm giác, nhưng đồng thời, ông lại phát biểu quan điểm về thượng đế như là một thứ khởi thuỷ đầu tiên của vũ trụ (tự nhiên thần luận).
Xét về lập trường chính trị - xã hội, về nhà nước và pháp luật, Lôckơ được xem là nhà tư tưởng tư sản tiêu biểu. Trong tác phẩm “Hai luận thuyết...” ông trình bày một cách có hệ thống về chế độ xã hội và tổ chức chính trị. Cũng như một loạt các nhà tư tưởng tư sản đương thời, Lôckơ trình bày quan điểm của mình từ cái gọi là pháp quyền tự nhiên, phê phán chế độ phong kiến, buộc tội nó là trái với pháp quyền tự nhiên.
Với tác phẩm đó, ông được coi là người đã xây dựng lý thuyết cho chế độ dân chủ tự do. Tư tưởng của ông được các thành viên soạn thảo Hiến pháp Mỹ kế thừa. Locke cũng có ảnh hưởng lớn đối với các nhà tư tưởng Pháp suốt thế kỷ XVIII và tư tưởng của ông có ảnh hưởng chủ yếu trong cuộc cách mạng Mỹ và Pháp.
2. Nguồn gốc của chính quyền
Những luận giải của Locke về sự ra đời của nhà nước - chính quyền gợi sự liên tưởng đến một triết gia khác của Anh là Thomas Hobbes (1588-1679). Nếu như Thomas Hobbes quan niệm “nhân chi sơ tính bản ác” thì John Locke lại cho rằng bản tính của con người được quyết định bởi lý trí và lòng bao dung. Tuy nhiên, cả hai tác giả này đều lý giải sự xuất hiện của nhà nước trên cơ sở một giao ước chung của cộng đồng - khế ước xã hội.
Đối với Hobbes, nhà nước xuất hiện do sự cạnh tranh lẫn nhau giữa con người trong cuộc chiến để sinh tồn. Trong cuộc chiến đó, mọi người đi đến chỗ ký kết kế ước xã hội để tự bảo vệ mình và thực hiện một bước chuyển từ trạng thái tự nhiên sang xã hội công dân. Trong khi đó Locke cho rằng, sự hình thành của nhà nước là nhằm mục đích giải quyết sự xung đột giữa trạng thái tự nhiên và trạng thái chiến tranh của con người. Nhà nước xuất hiện như là kết quả từ sự đồng thuận chung của mọi người để liên kết và hợp nhất trong một cộng đồng nhằm đạt được sự an ninh lớn hơn chống lại bất cứ thứ gì không thuộc về điều đó.
Quan điểm của Locke về sự ra đời của nhà nước là một đóng góp tiến bộ cho lý thuyết về khế ước xã hội. Một thế kỷ sau đó, Jean Jacques Rousseau đã nhắc lại ý tưởng này của Locke như là nội dung cốt lõi cho kiệt tác “Bàn về khế ước xã hội” của ông: “Với khế ước xã hội, con người mất đi cái tự do thiên nhiên và cái quyền hạn chế được làm những điều muốn làm mà làm được; nhưng mặt khác con người thu lại quyền tự do dân sự và quyền sở hữu những cái mà anh ta có”. Khi gia nhập khế ước xã hội, con người từ bỏ những gì họ có trong trạng thái tự nhiên để đạt tới sự bảo toàn tốt hơn cho chính mình, sức mạnh có giới hạn của cá nhân được thay thế bởi sức mạnh chung tưởng như vô hạn của cả cộng đồng.
Với những nhận định mang tính lý luận về nguồn gốc của chính quyền, về mối quan hệ giữa xã hội dân sự và xã hội chính trị, John Locke còn được đánh giá là người khởi thảo cho học thuyết phân quyền. Trước Locke, Hobbes từng mô tả nhà nước như một con quái vật khổng lồ nắm trọn mọi quyền lực tối cao và bất khả chiến bại. Hơn thế nữa, Hobbes còn quan niệm rằng, nhân dân chuyển giao toàn bộ quyền lực cho nhà nước và bởi vậy, quyền lực nhà nước là bất khả phân.
Đến Locke, ông đã chỉ ra sự phân chia quyền lực nhà nước như một sự phân công lao động hợp lý: lập pháp là quyền lực cao nhất trong bộ máy nhà nước và thuộc về nghị viện. Nghị viện thông qua các đạo luật, còn việc thực hiện chúng là phần việc của cơ quan hành pháp. Còn dân chúng hay cộng đồng xã hội sẽ giữ quyền phán xử trong các tranh chấp giữa bộ ba lập pháp - hành pháp - dân chúng. Điều đáng tiếc là ông chưa nhận thấy thẩm quyền tài phán lẽ ra phải thuộc về một quyền lực độc lập khác (quyền lực tư pháp) trong hệ thống các cơ quan nhà nước.
Hạn chế này của Locke về sau đã được bổ khuyết bởi Montesquieu, một nhà tư tưởng Pháp thế kỷ XVIII. Ông đã kế thừa và phát triển tư tưởng của Locke lên một tầm cao mới. Montesquieu không đề cập đến quyền lực tối cao, mà chỉ ra một quyền lực có thể phân chia, một quyền lực nhà nước có kiểm soát và sự kiểm soát đó được thực hiện bằng một cơ chế mà các thành phần của nó nằm ngay chính trong cơ cấu của nhà nước, đó chính là 3 nhánh quyền lập pháp - hành pháp - tư pháp cùng cơ chế kìm chế và đối trọng.
3. Hạnh phúc của nhân dân là luật tối cao của mọi chính quyền
Ngạn ngữ Latinh có câu “Salus populi suprema lex”, có nghĩa là hạnh phúc của nhân dân là luật tối cao. Đó cũng chính là mục tiêu cao nhất và bất biến của mọi chính quyền chân chính. Mục đích hướng tới của việc thiết lập chính quyền không là gì khác ngoài việc bảo đảm cho mọi người dân quyền sống, quyền tự do và quyền sở hữu.
Trong phần lớn tác phẩm này, John Locke đã biện luận cho sự phát triển của chính quyền như là một hình thái khác của gia đình và quyền lực chính trị của quốc vương hay nhà lãnh đạo cao nhất của chính quyền được ông gán với quyền lực gia trưởng của người cha. Trách nhiệm của người cha là gìn giữ sự gắn bó của gia đình và mang lại hạnh phúc cho các thành viên của nó, còn trách nhiệm của bậc quân vương là bảo tồn chính quyền và bảo đảm hạnh phúc cho muôn dân.
Ở đây có một điều tinh tế cần lưu ý. Nếu hạnh phúc của người dân trong một chế độ nhà nước dân chủ dứt khoát phải bao hàm hai yếu tố nền tảng là quyền tự do và bình đẳng thì trách nhiệm của nhà nước chắc không thể nào khác hơn là phải ghi nhận và bảo đảm thực thi quyền tự do và bình đẳng ấy. Mọi người sinh ra đều có sự bình đẳng tự nhiên, nhưng không có nghĩa là bình đẳng tuyệt đối. Và Locke đã có lý khi thừa nhận rằng có những loại bình đẳng khác nhau tồn tại trên thực tế.
“Tuổi đời hoặc đức hạnh có thể đem lại cho nhiều người một sự ưu tiên đúng đắn. Xuất sắc về tài năng và phẩm chất có thể đặt những người khác cao hơn mức độ bình thường. Dòng dõi có thể khuất phục một số này và tạo liên kết hoặc lợi ích cho số khác. Tự nhiên đặt sự tuân thủ đối với người kia, còn người nọ thì hưởng được sự mang ơn, kính trọng”. Bởi vậy, trong mối tương quan với trách nhiệm của nhà nước thì sự bình đẳng của người dân cần được hiểu là “cái quyền ngang nhau mà mỗi người đều có đối với sự tự do đương nhiên có của mình, mà không phải khuất phục trước ý chí hay quyền uy của bất cứ ai khác”.
4. Sự giải thể của chính quyền
Trong cuốn sách này, Locke luôn đặt nhân dân ở vị trí trang trọng, coi đó là lực lượng quan trọng nhất trong việc giới hạn quyền lực của nhà nước, là trọng tài phân minh những tranh chấp giữa lập pháp và hành pháp cũng như giữa lập pháp, hành pháp với dân chúng. Và họ luôn nắm trong tay một đặc quyền vốn chỉ thuộc về chủ thể gốc của quyền lực nhà nước.
“Quyền lực mà mỗi cá nhân trao cho xã hội, khi anh ta gia nhập vào đó, không bao giờ quay ngược về cá nhân một lần nữa chừng nào mà xã hội vẫn còn tồn tại, mà sẽ luôn được lưu giữ tại cộng đồng”. Cũng tương tự như vậy, quyền lực mà xã hội/nhân dân trao cho nhà nước/chính quyền cũng sẽ không có sự chuyển hồi một khi chính quyền vẫn còn tồn tại.
Nói như vậy cũng là một sự hàm ý rằng quyền lực chỉ thoát ly khỏi xã hội trong một thời hạn nhất định. Mặt khác, dân chúng không chuyển giao hoàn toàn quyền tự nhiên của mình cho quyền lực tuyệt đối của nhà nước, mà bằng lý trí, họ vẫn giữ lại phần cho mình, là cái được đặt ở khối toàn thể công dân.
Với tư tưởng cách mạng, giải quyết vấn đề một cách triệt để, sẵn sàng xoá bỏ cái cũ để xây dựng cái mới một khi cái cũ đã trở nên lỗi thời, cản trở sự phát triển, không có dấu ấn của một tư tưởng thoả hiệp, nửa vời, Locke khẳng định rằng cách mạng không chỉ là quyền, mà trong một số trường hợp còn là nghĩa vụ và chủ thể của nó không phải là ai khác hơn ngoài dân chúng.
Quyền lực sẽ quay trở về với xã hội một khi chính quyền gây ra những sai lầm không thể chịu đựng được đối với người dân, phản bội những giao ước đã từng cam kết với người dân hay nói cách khác, đi ngược lại những thẩm quyền mà xã hội đã giao phó. Khi đó, người dân không còn bị ràng buộc bởi khế ước xã hội nữa và:“Nhân dân có quyền hành động với tư cách quyền lực tối cao và tự mình tiếp tục công việc lập pháp, hoặc dựng lên một hình thức chính quyền mới, hoặc vẫn theo hình thức cũ đó nhưng được đặt vào tay những con người mới, theo những gì họ cho là tốt đẹp”. Đó cũng là sự thể hiện tư duy biện chứng của Locke và các nhà lý thuyết về khế ước xã hội.
5. Tác phẩm khảo luận thứ hai về chính quyền đối với Việt Nam
Ở Việt Nam, tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền, được dịch giả Lê Tuân Huy dịch sang tiếng Việt năm 2007, đến nay đã thu hút sự nghiên cứu của nhiều học giả trên cả lĩnh vực triết học và chính trị học. Vậy cũng đủ để khẳng định giá trị và sức lôi cuốn của những vân đề mà cuốn sách đề cập đến. Vân đề cơ bản mà Locke đề cập trong tác phẩm là lý luận về nhà nước pháp quyền, một vấn đề không còn là mới mẻ với phương Tây, nhưng lại là có tính thời sự ở Việt Nam hiện nay. Chúng tôi không có ý định trình bày lại toàn bộ học thuyết của Locke về nhà nước pháp quyền mà chỉ đi sâu phân tích quan niệm cơ bản của Locke về giới hạn và sự phân chia quyền lực nhà nước – biện pháp để đảm bảo quyền tự nhiên của con người.