Nội dung được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Dân sự của Công ty luật Minh Khuê

>> Luật sư tư vấn pháp luật Dân sự, gọi:  1900 6162

Cơ sở pháp lý: 

- Bộ luật hàng hải Việt Nam 2015

- Thông tư số 19/2013/TT-BGTVT Quy định việc áp dụng quy tắc quốc tế về phòng ngừa đâm va tàu thuyền trên biển

- Quy tắc quốc tế về phòng ngừa đâm va tàu thuyền trên biển của Tổ chức Hàng hải quốc tế năm 1972 được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1981, 1987, 1989, 1993, 2001 và 2007

Bài viết này điều chỉnh các loại tàu thuyền sau:

- Tàu biển, tàu quân sự, tàu công vụ, tàu cá, phương tiện thủy nội địa và thủy phi cơ Việt Nam hoạt động trong vùng nước cảng biển, luồng hàng hải, trên các vùng biển Việt Nam và biển cả.

- Tàu biển nước ngoài hoạt động trong vùng nước cảng biển, luồng hàng hải, trên các vùng biển Việt Nam.

1. Hành trình của tàu thuyền trong mọi điều kiện tầm nhìn xa

Để bảo đảm thực hiện Quy tắc quốc tế về phòng ngừa đâm va tàu thuyền trên biển Thông tư 19/2013/TT-BGTVT hướng dẫn về hành trình của tàu thuyền trong mọi điều kiện tầm nhìn xa. Cụ thể như sau:

1.1. Công tác cảnh giới

Theo quy định tại Điều 5 Thông tư 19/2013/TT-BGTVT, tất cả tàu thuyền phải thường xuyên duy trì công tác cảnh giới bằng mắt nhìn và tai nghe một cách thích đáng, đồng thời phải sử dụng tất cả các thiết bị sẵn có phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện hiện tại để đánh giá đầy đủ tình huống và nguy cơ đâm va.

1.2. Tốc độ an toàn

Tất cả tàu thuyền phải luôn luôn giữ tốc độ an toàn để có thể chủ động xử lý có hiệu quả khi tránh va và có thể dừng hẳn lại ở khoảng cách giới hạn cần thiết trong những hoàn cảnh và điều kiện cho phép. Để xác định được tốc độ an toàn, cần phải tính đến các yếu tố dưới đây:

Đối với mọi tàu thuyền:

a) Trạng thái tầm nhìn xa;

b) Mật độ giao thông, kể cả mức độ tập trung của các tàu thuyền đánh cá hay bất kỳ các loại tàu thuyền nào khác;

c) Khả năng điều động và đặc biệt là khoảng cách cần thiết để tàu thuyền dừng hẳn lại và khả năng quay trở trong những điều kiện hiện có;

d) Ban đêm có vầng ánh sáng của các đèn trên bờ hoặc sự khuếch tán ánh sáng của các đèn trên tàu thuyền;

đ) Trạng thái gió, sóng biển, hải lưu và trạng thái gần các chướng ngại hàng hải;

e) Sự tương quan giữa mớn nước và độ sâu sẵn có.

Đối với các tàu thuyền có sử dụng radar:

a) Các đặc tính, hiệu quả và những mặt hạn chế của thiết bị radar;

b) Những mặt hạn chế trong việc sử dụng các thang khoảng cách của radar;

c) Trạng thái của biển, các yếu tố khí tượng và các nguồn nhiễu xạ khác có ảnh hưởng đến sự phát hiện mục tiêu của radar;

d) Khả năng radar không phát hiện được những tàu thuyền nhỏ, các tảng băng và các vật nổi khác ở khoảng cách thích hợp;

đ) Khả năng phát hiện của radar về số lượng, vị trí và sự di chuyển của các tàu thuyền;

e) Khả năng đánh giá chính xác tầm nhìn xa khi sử dụng radar để đo khoảng cách đến các tàu thuyền hoặc đến các mục tiêu lân cận.

1.3. Nguy cơ đâm va

Tàu thuyền phải sử dụng tất cả các thiết bị sẵn có thích hợp với hoàn cảnh và điều kiện hiện tại để xác định có nguy cơ đâm va hay không. Nếu chưa khẳng định được điều đó thì phải coi như đang tồn tại nguy cơ đâm va.

Sử dụng triệt để thiết bị radar của tàu, quan sát ở thang tầm xa lớn, thích hợp sớm phát hiện nguy cơ đâm va và tiến hành đồ giải tránh va radar hoặc theo dõi một cách có hệ thống các mục tiêu đã được phát hiện.

Không đưa ra những kết luận dựa trên cơ sở các thông tin chưa đầy đủ, đặc biệt đối với những thông tin do radar cung cấp.

Trong việc xác định có nguy cơ đâm va hay không phải tính đến các yếu tố sau:

a) Có nguy cơ đâm va khi phương vị la bàn của tàu thuyền đang đến gần không thay đổi rõ rệt;

b) Nguy cơ đâm va vẫn có thể xảy ra ngay cả khi quan sát thấy phương vị thay đổi rõ rệt, đặc biệt là khi đến gần một tàu rất lớn hoặc một đoàn tàu lai hay một tàu thuyền khác ở khoảng cách ngắn.

1.4. Điều động tránh va

Khi điều động tránh va theo quy định tại Chương này, khi hoàn cảnh cho phép phải được tiến hành một cách dứt khoát, kịp thời và phù hợp với kinh nghiệm của người đi biển lành nghề.

Khi thay đổi hướng đi hay tốc độ hoặc cả hai cùng một lúc để tránh va, nếu hoàn cảnh cho phép, phải thay đổi đủ lớn để tàu thuyền khác có thể nhận biết dễ dàng bằng mắt thường hay bằng radar; tránh thay đổi hướng đi hay tốc độ hoặc cả hai cùng một lúc một cách từng ít một.

Nếu có vùng nước đủ rộng, thì chỉ cần thay đổi hướng đi đơn thuần đã có thể coi là hành động có hiệu quả nhất để tránh rơi vào tình trạng quá gần tàu thuyền khác, với điều kiện là việc điều động đó phải tiến hành kịp thời, có hiệu quả và không dẫn tới một tình huống quá gần khác.

Hành động tránh va với tàu thuyền khác là hành động dẫn đến việc tàu thuyền đi qua nhau ở khoảng cách an toàn. Hiệu quả của hành động tránh va phải được kiểm tra thận trọng cho đến khi tàu thuyền kia đã hoàn toàn đi qua và ở xa tàu thuyền mình.

Nếu cần thiết để tránh va hay để có thêm thời gian nhận định hết các tình huống, tàu thuyền phải giảm bớt tốc độ hay phải phá trớn tới bằng cách ngừng máy hoặc cho máy chạy lùi.

Tàu thuyền mà theo các quy định tại Thông tư này không được cản trở việc đi qua hoặc đi qua an toàn của tàu thuyền khác, khi hoàn cảnh bắt buộc thì phải điều động sớm để có đủ khoảng cách cho việc đi qua an toàn của tàu thuyền kia.

Tàu thuyền không được cản trở việc đi qua hoặc đi qua an toàn của tàu thuyền khác, không được miễn giảm trách nhiệm nếu tiếp cận một tàu thuyền khác đến mức dẫn đến nguy cơ đâm va và khi điều động phải có sự quan tâm đầy đủ đến các qui định tại Chương này.

Tàu thuyền được ưu tiên, không bị các tàu khác cản trở việc đi qua, vẫn phải có nghĩa vụ chấp hành đầy đủ các qui định tại Chương này, khi hai tàu tiến đến gần nhau mà có nguy cơ đâm va.

1.5. Hành trình trong luồng hẹp

Tàu thuyền đi trong luồng hẹp hay kênh đào, nếu điều kiện thực tế cho phép và đảm bảo an toàn, phải bám sát mép bên phải của luồng hay kênh.

Tàu thuyền có chiều dài nhỏ hơn 20 mét hoặc tàu thuyền buồm không được gây trở ngại cho tàu thuyền chỉ có thể hành trình an toàn trong phạm vi giới hạn của luồng hẹp.

Tàu thuyền đang đánh cá không được gây trở ngại cho những tàu thuyền khác đang hành trình trong phạm vi giới hạn của luồng hẹp.

Tàu thuyền không được cắt ngang qua luồng hẹp, nếu việc đó gây trở ngại cho tàu thuyền chỉ có thể hành trình an toàn trong phạm vi giới hạn của luồng hẹp đó. Tàu thuyền bị cắt hướng có thể sử dụng âm hiệu quy định tại khoản 4 Điều 34 của Thông tư này nếu nghi ngờ tàu thuyền kia có ý định chạy cắt ngang qua hướng tàu mình.

Tàu thuyền vượt trong luồng hay luồng hẹp:

a) Trong luồng hay luồng hẹp chỉ được phép vượt khi tàu thuyền bị vượt đã điều động để cho phép vượt an toàn, tàu thuyền có ý định vượt phải báo bằng âm hiệu thích hợp với ý định của mình theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 34 của Thông tư này. Tàu thuyền bị vượt nếu đồng ý phải phát âm hiệu thích hợp theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 34 của Thông tư này và phải điều động để cho tàu thuyền kia vượt qua an toàn. Nếu còn thấy nghi ngờ có thể phát âm hiệu quy định tại khoản 4 Điều 34 của Thông tư này;

b) Điều này không miễn trừ cho tàu thuyền vượt phải tuân theo các yêu cầu tại Điều 13 của Thông tư này.

Tàu thuyền đi đến gần khúc ngoặt hoặc đi đến gần đoạn luồng hẹp tương tự mà tàu thuyền khác có thể không nhìn thấy do chướng ngại vật che khuất, thì phải hành trình đặc biệt thận trọng và tăng cường cảnh giới, đồng thời phải phát âm hiệu thích hợp quy định tại khoản 5 Điều 34 của Thông tư này.

Nếu hoàn cảnh cho phép, mọi tàu thuyền phải tránh thả neo trong luồng hẹp.

1.6. Hành trình trên các hệ thống phân luồng

Điều này áp dụng đối với hệ thống phân luồng đã được Tổ chức Hàng hải quốc tế chấp nhận và nó không giảm nhẹ nghĩa vụ cho bất kỳ tàu thuyền nào đối với quy định tại bất kỳ điều nào khác.

Tàu thuyền hành trình trong hệ thống phân luồng phải:

a) Đi theo đúng tuyến đường giao thông đã quy định và theo đúng hướng đi chung quy định ở tuyến đường đó;

b) Trong chừng mực có thể được, giữ hướng đi cách xa đường phân cách hoặc dải phân cách của hệ thống phân luồng;

c) Theo quy định chung, phải đi vào hoặc rời hệ thống phân luồng ở hai đầu hệ thống phân luồng, nhưng khi tàu thuyền phải đi vào hoặc rời từ mỗi phía trong giới hạn của hệ thống phân luồng, thì phải đi theo hướng tạo với hướng đi chung một góc càng bé càng tốt.

Nếu thực tế cho phép, tàu thuyền phải hết sức tránh đi cắt ngang hệ thống phân luồng, nhưng nếu bắt buộc phải cắt ngang hệ thống phân luồng thì phải đi theo hướng mũi tàu tạo với hướng chính của luồng một góc càng gần 9° càng tốt.

Sử dụng vùng nước phía bờ:

a) Tàu thuyền không được sử dụng vùng nước phía bờ để qua lại khi tàu thuyền đó có thể đi lại an toàn trong tuyến giao thông thích hợp liền kề hệ thống phân luồng. Tuy nhiên, tàu thuyền có chiều dài dưới 20 mét, tàu thuyền buồm và tàu thuyền đang đánh cá có thể sử dụng vùng nước phía bờ.

b) Bất kể quy định tại điểm a khoản này, tàu thuyền có thể sử dụng vùng nước phía bờ khi tàu thuyền đó đang trên đường vào hoặc rời cảng, cấu trúc hoặc thiết bị xa bờ, trạm hoa tiêu hoặc bất kỳ địa điểm khác trong vùng nước phía bờ hoặc để tránh một nguy cơ trước mắt.

Thông thường, tàu thuyền không phải là tàu thuyền vào, rời hoặc cắt ngang hệ thống phân luồng thì không được đi vào hoặc cắt ngang đường phân cách hoặc dải phân cách của hệ thống phân luồng, trừ:

a) Trường hợp khẩn nguy để tránh một nguy cơ trước mắt;

b) Trường hợp đánh cá ở trong vùng phân chia luồng.

Tàu thuyền hành trình trong những khu vực gần đoạn cuối của hệ thống phân luồng phải hết sức thận trọng.

Trong chừng mực có thể được, tàu thuyền tránh thả neo trong phạm vi hệ thống phân luồng hoặc trong các vùng gần hai đầu hệ thống phân luồng.

Tàu thuyền không sử dụng hệ thống phân luồng phải hành trình cách xa hệ thống đó một khoảng cách đủ lớn mà thực tế cho phép.

Tàu thuyền đang đánh cá không được cản trở đường đi của bất kỳ tàu thuyền nào đang hành trình trong hệ thống luồng.

Tàu thuyền có chiều dài dưới 20 mét hoặc tàu thuyền buồm không được cản trở đường đi của các tàu thuyền máy đang hành trình trong hệ thống luồng.

Tàu thuyền bị hạn chế khả năng điều động khi làm nhiệm vụ bảo đảm an toàn hàng hải trong hệ thống phân luồng được miễn trừ việc thực hiện các yêu cầu quy định tại Điều này đến chừng mực cần thiết để thực hiện công việc đó.

Tàu thuyền bị hạn chế khả năng điều động khi tiến hành công việc đặt, bảo dưỡng hoặc thu hồi cáp ngầm trong phạm vi hệ thống phân luồng được miễn trừ việc thực hiện các yêu cầu quy định tại Điều này đến chừng mực cần thiết để thực hiện những công việc đó.

2. Hành trình của tàu thuyền khi tầm nhìn xa bị hạn chế

Tầm nhìn xa bị hạn chế là trạng thái tầm nhìn xa bị giảm sút do sương mù, mưa phùn, mưa tuyết, mưa rào hay bão cát hoặc tất cả các nguyên nhân khác tương tự.

Theo quy định tại Điều 19 Thông tư 19/2013/TT-BGTVT, hành trình này áp dụng đối với các những tàu thuyền không nhìn thấy nhau bằng mắt thường khi hành trình trong hay gần những vùng mà tầm nhìn xa bị hạn chế.

Thứ nhất, tất cả tàu thuyền phải hành trình với tốc độ an toàn phù hợp với hoàn cảnh thực tế xảy ra và điều kiện tầm nhìn xa bị hạn chế. Tàu thuyền máy phải chuẩn bị máy sẵn sàng để có thể điều động được ngay khi cần thiết.

Thứ hai, khi áp dụng các quy định về hành trình trong mọi điều kiện tầm nhìn xa, tất cả tàu thuyền phải hết sức thận trọng, cân nhắc hành động cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế và điều kiện tầm nhìn xa bị hạn chế.

Thứ ba, tàu thuyền chỉ phát hiện được tàu thuyền khác bằng radar phải xác định xem tình huống có dẫn tới quá gần nhau hay có xảy ra đâm va không, khi có tình trạng đó xảy ra thì phải có những biện pháp xử lý kịp thời; trong trường hợp biện pháp chọn là thay đổi hướng đi thì trong chừng mực có thể được, tránh:

a) Thay đổi hướng đi về phía bên trái, khi tàu thuyền khác đang ở trước trục ngang và không phải là tàu thuyền đang bị vượt;

b) Thay đổi hướng đi về phía tàu thuyền đang ở vị trí chính ngang hoặc ở phía sau hướng chính ngang của tàu mình.

Thứ tư, trừ khi đã khẳng định được là không có nguy cơ đâm va, mọi tàu thuyền khi nghe được âm hiệu sương mù của một tàu thuyền khác ước chừng ở phía trước trục ngang của mình hay khi không thể tránh được tình huống quá gần tàu thuyền khác đang ở phía trước trục ngang thì phải giảm tốc độ đến mức thấp nhất, đủ để cho tàu ăn lái. Nếu xét thấy cần thiết, tàu thuyền phải phá trớn và trong mọi tình huồng phải điều động hết sức thận trọng cho đến khi không còn nguy cơ đâm va.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900 6162 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật Dân sự - Công ty luật Minh Khuê