Nếu tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của chủ tài sản thì hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt là hành vi nhận tài sản từ người bị lừa dối. Vì đã tin vào thông tin của người phạm tội nên người bị lừa dối đã giao nhầm tài sản. Khi nhận được tài sản cũng là ...
1. Khái quát về cơ sở pháp lý
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017, Điều luật gồm 5 khoản. Trong đó, khoản 1 quy định các dấu hiệu pháp lý và khung hình phạt cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; các khoản 2, 3, 4 quy định các trường hợp phạm tội tăng nặng và khoản 5 quy định khung hình phạt bổ sung.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017, Điều luật gồm 5 khoản. Trong đó, khoản 1 quý định các dấu hiệu pháp lý và khung hình phạt cơ bản của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; các khoản 2, 3, 4 quy định các trường hợp phạm tội tăng nặng và khoản 5 quy định khung hình phạt bổ sung.
>> Luật sư tư vấn pháp luật hình sự gọi: 1900.6162
2. Phân tích các đặc điểm cơ bản của tội danh
2.1 Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
2.1.1 Về chủ thể
Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định là chủ thể bình thường và theo Điều 12 BLHS là người từ đủ 16 tuổi trở lên vì tội này không thuộc các tội mà tuổi chịu trách nhiệm hình sự có thể từ đủ 14 tuổi trở lên được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 BLHS.
2.1.2 Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gồm hai hành vi khác nhau. Trong đó, một hành vi được điều luật quy định là thủ đoạn thực hiện hành vi thứ hai. Đó là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Hành vi lừa dối là thủ đoạn để thực hiện hành vi chiếm đoạt, còn hành vi chiếm đoạt là mục đích và là kết quả của hành vi lừa dối.
Hành vi lừa dối được hiểu là hành vi (cố ý) đưa ra thông tin không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật.
Xét về mặt khách quan, hành vi lừa dối là hành vi đưa ra những thông tin giả. về mặt chủ quan, người phạm tội biết đó là thông tin giả nhưng mong muốn người khác tin đó là sự thật. Hành vi lừa dổi như vậy có thể được thực hiện qua lời nói, qua việc xuất trình những giấy tờ sai sự thật hoặc qua những việc làm cụ thể (đưa sai, đưa thiếu, đếm thiếu v.v..).
Hành vi lừa dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện là nhằm thực hiện việc chiếm đoạt tài sản. Những hành vi lừa dối nhằm mục đích khác dù mục đích này có tính tư lợi cũng không phải là hành vi phạm tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lừa đảo có hai hình thức thể hiện cụ thể:
- Nếu tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của chủ tài sản thì hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt là hành vi nhận tài sản từ người bị lừa dối. Vì đã tin vào thông tin của người phạm tội nên người bị lừa dối đã giao nhầm tài sản. Khi nhận được tài sản cũng là lúc người phạm tội lừa đảo đã làm chủ được tài sản định chiếm đoạt và người bị lừa dối đã mất khả năng làm chủ tài sản đó trên thực tế. Ở thời điểm này, tội phạm được xác định là tội phạm hoàn thành.
- Nếu tài sản bị chiếm đoạt đang ở trong sự chiếm hữu của người phạm tội thì hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt là hành vi giữ lại tài sản đáng lẽ phải giao cho người bị lừa dối. Vì đã tin vào thông tin của người phạm tội nên người bị lừa dối đã nhận nhầm tài sản (nhận thiếu, nhận sai loại tài sản được nhận) hoặc không nhận. Khi người bị lừa dối nhận nhầm hoặc không nhận tài sản cũng là lúc người phạm tội lừa đảo đã làm chủ được tài sản bị chiếm đoạt và người bị lừa dối đã mất tài sản đó. Ở thời điểm này, tội phạm được xác định là tội phạm hoàn thành.
Thông thường hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra kể tiếp ngay sau hành vi lừa dối. Nhưng cũng có trường hợp giữa hai hành vi này có khoảng cách nhất định về thời gian. Ở đây cần chú ý tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ coi là hoàn thành khi hành vi chiếm đoạt đã xảy ra.
- Dấu hiệu phân biệt giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ là vi phạm
Theo điều luật, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi thoả mãn một trong các dấu hiệu sau:
- Tài sản chiếm đoạt trị giá từ 02 triệu đồng trở lên;
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt (có thể là hành vi trộm cắp tài sản, hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản hoặc hành vi chiếm đoạt khác);
- Đã bị kết án về tội chiếm đoạt hoặc tội được quy định tại Điều 290 (các hành vi chiếm đoạt có sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử) và chưa được xoá án tích;
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội (gây ra tâm lý lo lắng trong dân cư về an ninh, trật tự, an toàn xã hội);
- Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ (như xe máy dùng để chở khách và tiền thu được từ việc chở khách là khoản thu chính của gia đình).
2.1.3 Khung hình phạt
Khoản 1 của điều luật quy định khung hình phạt cơ bản là phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung hình phạt này được áp dụng cho trường hợp phạm tội mà trị giá tài sản bị lừa đảo dưới 50 triệu đồng.
Khoản 2 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
- Có tổ chức: Đây là trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện dưới hình thức đồng phạm mà trong đó có sự câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm.
- Có tỉnh chất chuyên nghiệp: Đây là trường hợp người phạm tội đã liên tiếp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và coi việc phạm tội này như là nguồn thu nhập chính.
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng: Đây là trường hợp tài sản lừa đảo trị giá từ 50 triệu đồng trở lên nhưng dưới mức 200 triệu đồng (vì đến mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ hai được quy định tại khoản 3 của điều luật).
- Tải phạm nguy hiểm: Đây là trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thoả mãn các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 53 BLHS.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tồ chức: Đây là trường họp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chủ thể đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình hoặc danh nghĩa cơ quan, tổ chức khi thực hiện hành vi lừa dối. Nạn nhân của tội phạm bị mắc lừa là do tin vào chức vụ, quyền hạn của người phạm tội hoặc do tin vào cơ quan, tổ chức mà người phạm tội đã nhân danh.
- Dùng thủ đoạn xảo quyệt: Đây là trường họp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chủ thể đã dùng thủ đoạn tinh vi để có thể lừa dối được nạn nhân.
Khoản 3 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội cỏ một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
- Chiếm đoạt tài sản trị giả từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng: Đây là trường họp tài sản bị lừa đảo trị giá từ 200 triệu đồng trở lên nhưng dưới mức 500 triệu đồng (vì đến mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ ba được quy định tại khoản 4 của điều luật).
- Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh: Đây là trường họp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chủ thể đã lợi dụng tình trạng thiên tai hoặc tình trạng dịch bệnh khi thực hiện hành vi phạm tội.
Khoản 4 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ ba là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá 500 triệu đồng trở lên: Đây là trường họp tài sản bị lừa đảo trị giá từ 500 triệu đồng trở lên.
- Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tĩnh trạng khẩn cấp: Đây là trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chủ thể đã lợi dụng tình trạng chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp khi thực hiện hành vi phạm tội.
Khoản 5 của điều luật quy định khung hình phạt bổ sung (có thể được áp dụng) là: Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đen 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
2.2 Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
2.2.1 Về hành vi
- Chiếm đoạt tài sản của người khác đã được giao cho mình trên cơ sở hợp đồng vay, mượn, thuê tài sản V.V.. bằng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn hoặc cố tình không trả lại tài sản đó khi đến hạn mặc dù có điều kiện, khả năng để trả lại.
- Sử dụng tài sản của người khác đã được giao cho mình trên cơ sở hợp đồng vay, mượn, thuê V.V.. vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
Hai loại trường họp phạm tội của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định có dấu hiệu pháp lý chung và dấu hiệu pháp lý riêng. Dấu hiệu pháp lý chung là dấu hiệu về chủ thể và dấu hiệu phân biệt giữa trường họp lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tội phạm và trường hợp lạm dụng tín nhiệm chỉ là vi phạm.
2.2.2 Dấu hiệu chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 12 BLHS là người từ đủ 16 tuổi trở lên vì tội này không thuộc các tội mà tuổi chịu trách nhiệm hình sự có thể từ đủ 14 tuổi trở lên được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 BLHS.(30,) Ngoài ra, chủ thể của tội phạm này được quy định là người đã được chủ tài sản tín nhiệm giao cho tài sản. Cơ sở giao tài sản là hợp đồng. Việc giao và nhận tài sản là hoàn toàn ngay thẳng. Chủ tài sản do tín nhiệm đã giao tài sản để người được giao:
- Sử dụng (theo hợp đồng vay, mượn, thuê);
- Bảo quản (theo hợp đồng trông giữ, bảo quản);
- Vận chuyển (theo hợp đồng vận chuyển);
- Gia công (theo họp đồng gia công chế biến);
- Sửa chữa (theo họp đồng sửa chữa) V.V..
- Dấu hiệu hành vi khách quan
Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định có thể là:
- Chiếm đoạt (không trả lại) tài sản đã được giao bằng thủ đoạn gian dối như giả tạo bị mất; đánh tráo tài sản; rút bớt tài sản v.v..; hoặc bỏ trốn;
- Không trả lại tài sản được giao khi đến hạn mặc dù có điều kiện, khả năng trả;
- Đã sử dụng tài sản được giao vào mục đích bất hợp pháp (như dùng vào việc buôn lậu, buôn bán hàng cấm hay đánh bạc...) và đã bị mất tài sản này nên không có khả năng trả lại.
2.2.3 Dấu hiệu lỗi của chủ thể
Lỗi của chủ thể khi thực hiện hành vi trên là lỗi cố ý.
- Dấu hiệu phân biệt giữa tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là vỉ phạm
Hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chỉ cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản khi thoả mãn một trong các dấu hiệu sau:
- Tài sản (chiếm đoạt) trị giá từ 04 triệu đồng trở lên;
- Chủ thể đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt (có thể là hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hành vi trộm cắp tài sản hoặc hành vi chiếm đoạt khác);
- Chủ thể đã bị kết án về tội được quy định tại các điều từ Điều 168 đến Điều 175 (có thể là tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tội trộm cắp tài sản hoặc tội chiếm đoạt khác) hoặc về tội được quy định tại Điều 290 (các hành vi chiếm đoạt có sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử) và chưa được xoá án tích;
- Tài sản (chiếm đoạt) là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ (như xe máy dùng để chở khách và tiền thu được từ việc chở khách là khoản thu chính của gia đình).
2.2.4 Khung hình phạt được áp dụng
Khoản 1 của điều luật quy định khung hình phạt cơ bản là phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung hình phạt này được áp dụng cho trường hợp phạm tội mà trị giá tài sản bị lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt dưới 50 triệu đồng.
Khoản 2 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
- Có tổ chức: Đây là trường hợp phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được thực hiện dưới hình thức đồng phạm mà trong đó có sự câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm.
- Có tỉnh chất chuyên nghiệp: Đây là trường hợp người phạm tội đã liên tiếp phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và coi việc phạm tội này như là nguồn thu nhập chính.
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng: Đây là trường hợp tài sản bị chiếm đoạt trị giá từ 50 triệu đồng trở lên nhưng dưới mức 200 triệu đồng (vì đến mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ hai được quy định tại khoản 3 của điều luật).
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức: Đây là trường hợp phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà chủ thể đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình hoặc danh nghĩa cơ quan, tổ chức khi thực hiện hành vi phạm tội.
- Dùng thủ đoạn xảo quyệt: Đây là trường họp phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà chủ thể đã dùng thủ đoạn gian dối tinh vi để chiếm đoạt tài sản.
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội'. Đây là trường họp phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã góp phần gây ra tâm lý lo lắng trong dân cư về an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Tái phạm nguy hiểm: Đây là trường hợp phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thoả mãn các điều kiện quy định tại khoản 2 Điếu 53 BLHS.
Khoản 3 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 05 năm đến 12 năm được áp dụng cho trường họp chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng: Đây là trường hợp tài sản bị chiếm đoạt trị giá từ 200 triệu đồng trở lên nhưng dưới mức 500 triệu đồng (vì đến mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ ba được quy định tại khoản 4 của điều luật).
Khoản 4 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ ba có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm được áp dụng cho trường họp chiếm đoạt tài sản trị giá 500 triệu đồng trở lên: Đây là trường hợp tài sản bị chiếm đoạt trị giá từ 500 triệu đồng trở lên.
Khoản 5 của điều luật quy định khung hình phạt bổ sung (có thể được áp dụng) là: Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty luật Minh Khuê