Cứ 4 năm, các thành viên lại họp Hội nghị Bảo tồn thế giới (World Conservation Congress), lần vừa rồi là vào tháng 11 năm 2004 tạiBangkok, Thái Lan, và lần thứ 4 sẽ tổ chức vào tháng 10 năm 2008 tại Barcelona, Tây Ban Nha. Cứ 10 năm, lại tổ chức World Parks Congress, trong đó đề ra những sách lược bảo vệ thiên nhiên trong nhữngkhu vực được bảo vệ, lần họp vừa rồi là vào tháng 11 năm 2003 tại Durban, Cộng hòa Nam Phi

 

2. Lịch sử hình thành và phát triển

- IUCN được thành lập tháng 10 năm 1948 sau một hội nghị quốc tế tại Fontainebleau, Pháp và hiện đặt trụ sở chính tại Gland, Thụy Sĩ. IUCN còn có 62 chi nhánh ở các quốc gia khác. Số thành viên đến thời điểm tháng 12/2007 là 1074, gồm những nhóm thành viên sau :

83 thành viên quốc gia (thường là các Bộ của các quốc gia, như Bộ Ngoại giao của Hoa Kỳ, Trung Quốc, Bộ Môi trường của Nga…)

111 thành viên là các tổ chức trực thuộc các chính phủ.

847 thành viên là các tổ chức phi chính phủ (NGO), trong đó có 83 tổ chức quốc tế.

33 thành viên từ những tổ chức trực thuộc liên minh.

Ngoài ra còn khoảng 1000 nhân viên và 10.000 nhà khoa học, chuyên gia của 181 quốc gia trên thế giới hoạt động tình nguyện.

Chủ tịch UICN hiện nay là ông Valli Moosa (Nam Phi). Tổng giám đốc hiện nay là bà Julia Marton-Lefèvre (Hunggari), từ ngày 2 tháng 1 năm 2007.

- Tên gọi qua các thời kỳ

Từ năm 1948 tới năm 1956 có tên gọi theo tiếng Anh là International Union for the Protection of Nature (nghĩa là Liên minh Quốc tế bảo vệ Thiên nhiên, viết tắt IUPN).

Từ năm 1956 được đổi tên thành International Union for Conservation of Nature and Natural Resources (nghĩa là Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên, viết tắt IUCN hay UICN theo tên gọi bằng tiếng Pháp hay tiếng Tây Ban Nha). Đây cũng là tên gọi pháp lý đầy đủ của IUCN, mặc dù nói chung người ta chỉ viết là International Union for Conservation of Nature (Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên).

Từ năm 1990 tới tháng 3 năm 2008 còn được gọi là World Conservation Union (nghĩa là Liên minh Bảo tồn Thế giới) cùng với tên gọi IUCN. Sau tháng 3 năm 2008 không còn sử dụng rộng rãi tên gọi này nữa.

 

3. Danh sách Đỏ các loài bị đe doạ là gì?

Danh sách Đỏ các loài bị đe dọa (còn được gọi là IUCN Red List hoặc Red Data List ), được thành lập vào 1964, là bản kiểm kê toàn diện nhất thế giới về tình trạng bảo tồn toàn cầu của các loài sinh vật . Nó sử dụng một bộ tiêu chí để đánh giá nguy cơ tuyệt chủng của hàng nghìn loài và phân loài. Các tiêu chí này phù hợp với tất cả các loài và tất cả các khu vực trên thế giới. Với cơ sở khoa học vững chắc của mình, Sách Đỏ của IUCN được công nhận là tài liệu hướng dẫn có thẩm quyền nhất về tình trạng đa dạng sinh học. Một loạt Danh sách Đỏ Khu vực được sản xuất bởi các quốc gia hoặc tổ chức, đánh giá nguy cơ tuyệt chủng của các loài trong một đơn vị quản lý chính trị.
Danh sách Đỏ IUCN được đặt ra dựa trên các tiêu chí chính xác để đánh giá nguy cơ tuyệt chủng của hàng nghìn loài và loài phụ. Các tiêu chí này phù hợp với tất cả các loài và tất cả các khu vực trên thế giới. Mục đích là để truyền tải sự cấp thiết của các vấn đề bảo tồn tới công chúng và các nhà hoạch định chính sách, cũng như giúp cộng đồng quốc tế cố gắng giảm thiểu sự tuyệt chủng của các loài. Theo IUCN , các mục tiêu chính thức được công bố của Sách Đỏ là cung cấp thông tin dựa trên khoa học về tình trạng của các loài và phân loài ở cấp độ toàn cầu, thu hút sự chú ý đến mức độ và tầm quan trọng của đa dạng sinh học bị đe dọa, ảnh hưởng đến quốc gia cũng như ra quyết định và chính sách quốc tế, đồng thời cung cấp thông tin để hướng dẫn các hành động nhằm bảo tồn sự đa dạng sinh học.
Các chuyên gia đánh giá loài chính bao gồm BirdLife International , Viện Động vật học ( bộ phận nghiên cứu của Hiệp hội Động vật học London ), Trung tâm Giám sát Bảo tồn Thế giới và nhiều Nhóm chuyên gia trong Ủy ban Sinh tồn Các loài IUCN (SSC). Nói chung, đánh giá của các tổ chức và nhóm này chiếm gần một nửa số loài trong Sách Đỏ.
IUCN đặt mục tiêu đánh giá lại danh mục của mọi loài sau mỗi năm năm nếu có thể, hoặc ít nhất mười năm một lần. Việc này được thực hiện theo cách được đánh giá ngang hàng thông qua các Nhóm chuyên gia của Ủy ban Sinh tồn Loài của IUCN, là các Cơ quan có trách nhiệm trong Danh sách Đỏ chịu trách nhiệm về một loài, nhóm loài hoặc khu vực địa lý cụ thể, hoặc trong trường hợp của BirdLife International , cả một lớp (Aves ).
Số lượng loài được đánh giá trong Sách đỏ đang tăng lên theo thời gian. Tính đến năm 2019, trong số 105.000 loài được khảo sát, 28.338 loài được coi là có nguy cơ tuyệt chủng vì của hoạt động của con người, đặc biệt là đánh bắt quá mức , săn bắn và phát triển đất đai .Wikipedia site:vi.abadgar-q.com
 

4. Phân loại nguy cấp theo Sách đỏ

Từ năm 1963, Liên minh IUCN thường xuyên phát hành Sách đỏ (tiếng Anh là IUCN Red List of Threatened Species, IUCN Red List hay Red Data List) là danh sách về tình trạng bảo tồn và đa dạng của các loài động vật và thực vật trên thế giới, chia thành các cấp :

Extinct EX (tuyệt chủng)

Extinct in the Wild EW (tuyệt chủng trong tự nhiên)

Critically Endangered CR (cực kỳ nguy cấp, có nguy cơ tuyệt chủng)

Endangered EN (nguy cấp cao)

Vulnerable VU (bị đe dọa, sắp nguy cấp)

Near Threatened NT (sắp bị đe dọa hoặc nguy cơ nhẹ)

Least Concern LC (ít quan tâm)

Data Deficient DD (không đủ dữ liệu)

Not Evaluated NE (không phân loại hoặc không đánh giá)

Theo Sách đỏ UICN 2007 (danh sách cập nhật ngày 12 tháng 9), tổng cộng 16.306 loài sinh vật (thực- động vật), được coi là đang nguy cấp, trong đó có 785 loài được coi là đã hoàn toàn tuyệt chủng và 65 loài chỉ còn tồn tại trong môi trường nuôi nhốt (tuyệt chủng trong thiên nhiên), trong tổng số 41.415 loài (của khoảng 1,9 triệu chủng loại trên thế giới) đã được xếp hạng.

Trong bản đánh giá năm 2006 của IUCN, 65 % loài linh trưởng của Việt Nam đang ở trong tình trạng Nguy cấp hoặc Cực kỳ nguy cấp, vì vậy Việt Nam đang là một trong những nước được ưu tiên cao nhất trên toàn cầu về bảo tồn linh trưởng.

 

5. Phân loại các Khu vực được bảo vệ

IUCN đã đưa ra một hệ thống xếp loại những khu vực được bảo vệ từ năm 1978 và đến năm 1994 được cải tiến, chia ra như sau :

Loại I a và b : Strict Nature Reserve/Wilderness Area : Khu vực bảo hộ cực cao / Khu vực hoang dã : Những khu vực rộng lớn mà mục đích chính là để nghiên cứu hoặc bảo vệ những vùng hoang dã lớn.

Loại II : National Park : Vườn quốc gia, khu vực mà mục đích chính để bảo vệ hệ sinh thái và để dưỡng nghỉ.

Loại III : Natural Monument : Khu vực lưu giữ những biểu hiện đặc biệt của thiên nhiên.

Loại IV : Habitat/Species Management Area : Khu vực điều hành đặc biệt.

Loại V : Protected Landscape/Seascape : Khu vực để bảo vệ những cảnh quan trên đất liền hoặc trên biển.

Loại VI : Managed Resource Protected Area : Khu vực điều hành để sử dụng hiệu quả tài nguyên môi trường.

 

6. Những Ủy ban của IUCN

IUCN Commission on Ecosystem Management (CEM) : Ủy ban Quản lý hệ sinh thái, khoảng 400 thành viên, người đứng đầu hiện nay là Hillary Masundire.

IUCN Commission on Education and Communication (CEC) : Ủy ban Giáo dục và truyền thông, trên 500 thành viên, người đứng đầu hiện nay là Keith Wheeler (Hoa Kỳ).

IUCN Commission on Environmental, Economic and Social Policy (CEESP) : Ủy ban Môi trường, kinh tế và xã hội, khoảng 500 thành viên, người đứng đầu hiện nay là Taghi Farvar.

IUCN Commission on Environmental Law (CEL) : Ủy ban Luật Môi trường, khoảng 800 thành viên, người đứng đầu hiện nay là Sheila Abed. Một phần hoạt động chính của CEL là Chương trình Luật Bảo vệ môi trường (ELP) với việc điều hành 1 Trung tâm Luật Môi trường (IUCN Environmental Law Centre) .

IUCN Species Survival Commission (SSC) : Ủy ban Vì sự sống còn các chủng loại, khoảng 7000 thành viên, điều hành bởi Holly Dublin. Ủy ban này công bố cuốn Sách đỏ.

IUCN World Commission on Protected Areas (WCPA) : Ủy ban Thế giới về những khu vực bảo hộ, điều hành khoảng 1300 khu vực được bảo hộ trên thế giới, người đứng đầu hiện nay là Nikita Lopoukhin.

 

7. Chức năng và vai trò của IUCN

Chức năng chính của Liên minh quốc tế bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên là thực hiện các chương trình bảo tổn các nguồn gen và loài, bảo tồn và quản lí rừng nhiệt đới, đất ngập nước, nguồn lợi biển; thành lập và quản lÍ các công viên quốc gia và các khu vực bảo vệ khác, phát triển pháp luật môi trường, liên kết các vấn đề dân số với môi trường.

Liên minh quốc tế bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên gây ảnh hưởng, khuyến khích và giúp đở các tổ chức trên khắp thế giới bảo tồn tính toàn vẹn, sự đa dạng của thiên nhiên và đảm bảo bất kì sự sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên nào đều phải cân bằng và bền vững về mặt sinh thái. Ban thư kí là trung tâm điều phối chương trình của Hiệp hội bảo tổn thiên nhiên quốc tế và đáp ứng yêu cầu của các thành viên, đại diện cho các quan điểm của họ về thế giới và cung cấp cho họ các chiến lược, dịch vụ, kiến thức khoa học và kĩ thuật cần thiết để họ đạt được mục đích của mình. Thông qua 6 Uỷ ban (trong đó có Uỷ ban luật môi trường), Hiệp hội bảo tổn thiên nhiên quốc tế tập hợp được hơn 6000 chuyên gia tình nguyện vào các nhóm dự án và các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tổ chức cũng đã và đang giúp đỡ rất nhiều nước soạn thảo các chiến lược bảo tồn quốc gia và hướng dẫn cách áp dụng kiến thức của mình thông qua các dự án. Các hoạt động đã được triển khai ngày càng mạnh mẽ bởi một mạng lưới ngày một mở rộng của các cơ quan đại diện cho các quốc gia và khu vực ở các nước đang phát triển.

Liên minh quốc tế bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên dựa vào sức mạnh của các thành viên, các mạng lưới và các cộng tác viên của tổ chức nhằm tăng cường khả năng của mình và củng cố các khối liên minh toàn cầu để giữ gìn các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở phạm vi địa phương, khu vực và toàn cầu.

Liên minh quốc tế bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên đặc biệt quan tâm đến vai trò của các nhóm xã hội khác nhau, đặc biệt là phụ nữ. Hiệp hội còn quan tâm đến các dịch vụ bảo tồn, tư vấn cho các chiến lược quốc gia, đánh giá tác động môi trường, luật môi trường và giáo dục môi trường...